Thứ Hai, 14 tháng 1, 2013

Hiệp định hòa bình Paris và những “sự thật phũ phàng”


20130107143548_2

“Ngày 27-1-2013 sắp đến sẽ đánh dấu 40 năm ký kết Hiệp Định Paris 1973, một biến cố lịch sử vô cùng quan trọng đối với Việt Nam vì những hậu quả của nó áp đặt trên mảnh đất này trong gần bốn thập niên cho tới ngày nay,”
 ông Nguyễn Quốc Khải viết vào ngày 17/12 vừa qua cho RFA trong một bài mang tên “Sự thật phũ phàng về Hiệp định Paris 1973.”
Việc Ban Việt ngữ Đài ACTD cho đăng bài này để chuẩn bị đánh dấu kỷ niệm 40 năm Hiệp định Hoà bình Paris 1973 là một điều đáng khen bởi trong quá khứ, đã có những lần Ban Việt ngữ quên không có bài đánh dấu những mốc lớn trong lịch sử đất nước. Như Hội-nghị Genève chia đôi đất nước (1954) hay thậm chí cả Hội nghị Hoà bình Paris 1973 (tên chính thức của Hiệp-định kết thúc hội nghị này là “Paris PEACE Accords of 1973”). Trong khi đó, chúng ta có cách xa Đài không tới một tiếng đồng hồ những nhân chứng như Ông Bùi Diễm, một nhà ngoại giao lão thành của Việt Nam, người đã có dự cả Hội nghị Genève 1954 lẫn Hoà đàm Ba lê năm 1968-1973, chưa kể đến những nhân chứng người Mỹ nữa.
Bài viết của ông Nguyễn Quốc Khải, như vậy, tôi mong chỉ là một bài viết đầu tiên về vấn đề này. Rất mong là Ban Việt ngữ cố gắng đi tìm hiểu sự thật qua những nhân chứng lịch sử có thật thay vì chỉ đi dựa vào một vài học giả mà chưa chắc đã nắm hết sự thật.
Những sai sót có thể trông thấy ngay trong bài của Ông Khải
Có lẽ vì viết vội nên bài của Ông Khải đã có một số sai sót rất dễ nhìn ra.
Thứ nhất, khi nói về Hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước, ông mở ngoặc và ghi “mà chính VNCH đã xé bỏ,” tôi thấy thật là tội nghiệp cho Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ lúc bấy giờ đại diện cho chính phủ “Quốc gia Việt-nam.”
Ngày 21/7/1954, ngay sau khi chính phủ Pháp của Thủ tướng Pierre Mendès-France thoả thuận được về nội dung của Hiệp định sau 12 giờ đêm ngày 20/7 (tức sang sáng sớm ngày 21/7), cả nước Mỹ qua lời tuyên bố của trưởng phái đoàn, tướng Bedell Smith, và Quốc gia Việt Nam qua lời tuyên bố của Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đã tố cáo (“denounced”) sự chia đôi đất nước và không ký vào hiệp định “đình chiến” giữa Pháp và Việt Minh. Vậy thì làm sao có thể nói khơi khơi là “mà chính VNCH đã xé bỏ”?
Rồi cũng trong cùng một cảm-hứng, ông Nguyễn Quốc Khải viết:
Vào buổi trưa ngày 29-4-1973, Đài Phát Thanh Saigon truyền đi bản nhạc “I’m Dreaming of a White Christmas” qua dọng ca của Bing Crosby, báo hiệu cuộc di tản cuối cùng của Hoa Kỳ bắt đầu.”
Đây là một sự bịa đặt hoàn-toàn. Trước hết, ngày tháng của ông Khải sai: Ông cho chuyện này xảy ra hai năm trước khi mất miền Nam. Thứ nữa, Đài Phát Thanh Saigon, cho đến tận hôm nay (tức năm 2012, 37 năm sau), cũng chưa hề cho chơi bài “I’m Dreaming of a White Christmas” qua giọng (không phải “dọng”) hát Bing Crosby. Vậy thì ta thấy bài viết của ông Khải đáng tin đến đâu?
Đó là chưa kể đến những lỗi chính-tả không ít trong bài của ông Khải. Tỷ như “xác suất” (dịch chữ “probability”) mà ông Khải viết thành “sắc xuất,” thật là khó hiểu.
Tôi có thể lôi ra thêm những lỗi sơ đẳng khác nữa, nhưng đó không phải là mục đích bài viết của tôi.

Về phương pháp sử học
Khi viết sử, người ta phải biết dựa vào những dữ kiện có thật, không thể chỉ dựa vào cảm quan của mình. Bài của ông Khải, trái lại, thì đầy cảm quan. Như cách ông dịch chữ “decent interval” của Mỹ thành “khoảng cách chạy tội.”
Có thể dịch như ông nếu ta nghĩ, như tác giả Nguyễn Tiến Hưng, là “đồng-minh” Mỹ có ý “tháo chạy” ngay từ đầu. Đằng này, nếu ta nghiên cứu kỹ hai con người then chốt về phía Mỹ trong cuộc thảm bại ở Việt Nam, ta sẽ thấy hai người đó rất khác nhau. Ông Kissinger là một người Đức gốc Do thái, rất lo về an ninh vùng Trung đông, trong đó có nước Do thái, nên động cơ của ông là phải mau mau chấm dứt chiến tranh VN để còn đổ dồn chiến phí ở VN sang ủng hộ cho Do thái lúc bấy giờ đang lâm nguy (nhất là sau khi OPEC, tổ chức các quốc gia sản-xuất dầu lửa, thân các nước Ả-rập, quyết định tăng giá dầu lên gấp đôi vào tháng 10/1972 để làm khó Mỹ và Do-thái).
Trái lại, ông Nixon là tổng thống Mỹ. Ông không gốc Do thái nên cũng không có những động cơ tương tự như của ông Kissinger. Nếu đọc kỹ hồi ký của ông Nixon thì ta có thể tin rằng, tuy ông hiển nhiên rồi quan tâm đến vận mệnh chính trị của ông, ông cũng không có nhu cầu phải ở thêm một nhiệm kỳ nữa vì đến năm 1973, ông đã được bầu lại vào nhiệm kỳ 2 tức nhiệm kỳ cuối của ông rồi. Vì vậy nên ông có thể thành thật tin tưởng rằng “Việt-Nam-hoá” (“Vietnamization”) là con đường có thể cứu vãn được miền Nam. Hay ít nhất cũng mua được thời gian cho miền Nam đứng vững để có thể có dược một thời cơ khác.
Chính-sách của ông Nixon rất là bài bản. Để ra tranh cử với ông Hubert Humphrey sau khi Tổng-thống Lyndon B. Johnson khước từ, không nhận ra ứng cử cho nhiệm kỳ 1969-1973 để toàn tâm lo chuyện chấm dứt chiến-tranh VN, ông Nixon đã hứa là sẽ có kế hoạch để chấm dứt cuộc chiến ấy (hiểu là chấm dứt sự tham chiến của quân đội Mỹ ở chiến-trường VN, nghĩa là sẽ hết thương vong Mỹ tuy vẫn có thể ủng-hộ, yểm trợ miền Nam trong nhiều nghĩa). Có hiểu thế ta mới hiểu được chính sách của Mỹ (tức của ông Nixon) sau khi ông lên làm Tổng thống vào tháng 1/1969. Ông lập tức đưa ra chính sách “Việt-nam-hoá chiến-tranh ,” nghĩa là không đợi kết-quả của hoà đàm Paris mà tiến hành ngay với các vụ rút quân (= giữ lời hứa với cử-tri và dân-chúng Mỹ). Sau vụ gặp gỡ với ông Thiệu và ông Kỳ ở Midway, ông cho tăng cường quân viện cho VNCH. Ông khuyến khích Tổng thống Thiệu tiến hành với chương trình kinh tế và xã hội “Người Cày Có Ruộng.” Sau khi Quân lực VNCH tung quân sang Cao miên (1970) như vũ như bão, đánh bật hết các mật khu của CS ở bên đó, và với chiến dịch Phụng Hoàng ở nông thôn thành công lớn, ông đồng ý để cho Quân lực VNCH sang lâm trận ở Hạ Lào (tháng 2/1971). Tuy trận Hạ Lào đã không mang lại được kết quả mong muốn, ta cũng khám phá được ra sức mạnh của đối phương, nhất là về hoả lực phòng không và lực lượng chiến xa của họ. Nhờ vậy mà cuộc đọ sức sau đó, tuy Hà nội dốc hết lực lượng vào Nam trong mùa Hè đỏ lửa (tháng 4 đến tháng 9/1972) , Quân-lực VNCH đã can trường đánh bật được ra toàn-quân của họ ở ba địa-điểm tập-chú: Kontum, An Lộc (một trận đánh đã được gọi là Stalingrad của VN) và sau một thời gian lấy lại được Cổ thành Quảng trị (Quân sử Hà nội sau này đã phải gian lận và cho rằng Quân đội Nhân dân miền Bắc đã đánh chiếm lại được Cổ thành Quảng trị sau tháng 9 năm đó, trong khi chính Võ Nguyên Giáp đã cho là Lê Duẩn “ngu xuẩn” khi ra lệnh chiếm lại Cổ thành bằng mọi giá để cho quân chết như rạ, mất khoảng 1 đại đội mỗi đêm trong gần hai tháng trời).
Dựa vào những kết quả và chiến tích như vậy nên Mỹ mới dồn quân viện cho VNCH trong năm sau đó, chắc chắn là không phải với dụng ý là để sau này cúng (8 tỷ đô-la quân dụng) cho quân Bắc Việt. VNCH thua không phải vì Mỹ muốn phản bội, mà vì ông Nixon bị bó tay, do Quốc-hội Mỹ bó tay chính quyền của ông với luật “War Powers Act,” rồi cắt viện-trợ cho VNCH (như chính ông Khải cũng đã ghi lại: từ 2.2 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1973 [xuống] 1.1 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1974, và 700 triệu Mỹ kim cho tài khóa 1975).
Trong khi đó thì quân viện của Liên Xô và Trung Cộng cho Hà Nội thì tăng lên ngược chiều. Rồi ông bị mắc vào vụ Watergate, một chuyện hoàn toàn không may đối với VNCH (VNCH không có lỗi gì trong vụ này) vì nó buộc ông Nixon phải từ chức. Hiển nhiên, tới đó rồi thì bao nhiêu lời hứa hẹn của ông với ông Thiệu trở thành nước đổ xuống sông xuống biển.
Hiển nhiên, ông Thiệu cũng có lỗi trong một số quyết định vào những ngày chót của miền Nam. Mỹ thua ở Việt nam song cũng có người cho rằng vì Mỹ thua ở VN mà bộ mặt thật của Cộng sản mới lộ ra: chỉ trong một thời-gian rất ngắn, VNCS phải đương đầu với hai trận chiến với những đồng-minh của ngày hôm qua (Pol Pot và Trung-Cộng) để những vấn đề đó có vang vọng cho đến tận ngày hôm nay. Chưa kể là sau VN thì cũng cả khối CS Đông Âu và Liên Xô cũng sụp đổ theo.
Để kết
Rõ ràng là ông Nguyễn Quốc Khải đã không tôn trọng đến những nguyên tắc căn bản nhất của việc viết sử. Chưa kể ông còn lợi dụng một đề tài quan trọng của lịch sử VN để lái sang đả -kích cá-nhân tôi. Ông có thể không đồng ý với tôi (hay người khác) nhưng dùng những chữ nặng lời như “ý tưởng phục hồi Hiệp Định Paris là hoang tưởng nếu không muốn nói là bệnh hoạn” thì thật là không nên. Vì sao?
Vì trước nhất, ông giải thích sai hết cả về “giải-pháp VNCH” mà chúng tôi đã có dịp lên trình bầy ở trên Quốc hội Hoa kỳ từ tháng 6 năm 2010. Bài của chúng tôi viết về cuộc vận động này sau đó đã được nhiều báo đăng lại (trong đó có Website Việt Vùng Vịnh là chỗ dễ truy cập bài của tôi nhất, “Người Việt hải-ngoại và vấn-đề Biển Đông: Chúng ta đã góp được gì cho một giải-pháp?”). Sau đó, Khối 8406 trong nước cũng đã xin phép để đăng lại bài này trong phần tài-liệu của Khối. Cuối cùng, đến tạp chí “Quan hệ quốc tế hiện đại” của Trung quốc, số ra tháng 6/2011 cũng phải nhắc đến giải pháp này (Xem bài “Vận động chính trị của người Việt ở Mỹ và ảnh hưởng đối với tranh chấp Biển Đông”). Thiết tưởng ngần ấy chỗ, từ Quốc hội Hoa kỳ (kể cả Uỷ ban Ngoại giao Thượng viện) đến tình báo Trung Cộng, không ai xem đó là chuyện không tưởng cả thì ông Nguyễn Quốc Khải dựa vào đâu mà có thể xem đó là “hoang tưởng” hay “bệnh hoạn”?
Ta hãy cứ nghe ông Nguyễn Quốc Khải giải thích về Hiệp định Hoà bình Paris 1973. Ông viết: “Hiệp Định Paris đòi hỏi tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam, UBLĐLTVNCH sẽ phải ra tranh cử với Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (chính thức bị giải tán vào ngày 25-4-1976). Nhưng trước hết, UBLĐLTVNCH sẽ phải đưa hàng triệu người Bắc 75 về nguyên quán ngoại trừ 150,000 quân CSBV được Ông Kissinger và Ông Chu Ân Lai cho phép ở lại miền Nam từ 1973 đến nay.” Chỉ trong một đoạn này là đã có hai ba chỗ sai căn-bản:
“Hiệp định Paris đòi hỏi tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam,” đúng. Vậy Hà nội đã bao giờ để cho dân chúng miền Nam có tổng tuyển cử tự do ở miền Nam chưa?
Còn chuyện “Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam chính thức bị giải tán vào ngày 25-4-1976” bởi bàn tay của Hà Nội thì tại sao chuyện đó lại có thể là trách-nhiệm của VNCH được? Họ giết người của họ thì tội tình gì đến Hiệp-định Paris?
Vả lại, “giải-pháp VNCH” chủ-yếu dựa vào Điều 7b của Định-ước Quốc-tế về Hiệp-định Hoà-bình Paris” (“International Act on the Paris Peace Agreement”) trong khi bài của ông Khải không nhắc gì đến hiệp-ước quốc-tế có 12 quốc gia ký vào với sự chứng-kiến của ông Tổng-thư-ký Liên-hiệp-quốc hồi đó (tháng 3/1973). Vậy thì ta có thể coi bài của ông Nguyễn Quốc Khải là nghiêm chỉnh được không?
Đó là chưa kể ông Khải dựng đứng: “Nhưng trước hết, UBLĐLTVNCH sẽ phải đưa hàng triệu người Bắc 75 về nguyên quán.” Cần gì? Chỉ cần họ chứng minh được là trước năm 1975, chính họ hay cha mẹ họ đã có ở miền Nam là họ đủ điều kiện được đi bầu. Chứ 150.000 bộ-đội miền Bắc cũng không có lý do gì được xem là cử tri của miền Nam. Vì sao? Rất dễ hiểu, vì họ đã sẵn là cử tri của các địa phương ở miền Bắc.
© Nguyễn Ngọc Bích
© Đàn Chim Việt
  
 
 

17 Phản hồi cho “Hiệp định hòa bình Paris và những “sự thật phũ phàng””

  1. Trần Bảo Thịnh says:
    Kính gởi ông Nguyễn Ngọc Bích
    Với cái tựa đề “Hiệp định hòa bình Paris và những “sự thật phũ phàng”, Ông vẫn chưa giải thích hoặc trả lời cho câu hỏi của ông Nguyễn Quốc Khải “Phục hồi Hiệp Định Paris 1973: Hoang tưởng hay hiện thực”?
    Ai cũng biết “HĐ Paris 1973 và những điều thật phũ phàng”, cho dù có tiếp xúc hay phỏng vấn những nhân chứng như ông Bùi Diễm, Kissinger hay bất cứ ai chăng nữa thì cũng chẳng thể giải quyết đuợc gì!
    Câu hỏi vẫn là: “Phục hồi HĐ-Paris 1973 có khả thi hay không”?
    Kính mong Ông và những người trong tổ chức (chính phủ VNCH lưu vong) trả lời thẳng thắn câu hỏi trên đây!
    Nếu lập luận của các Ông vững và thuyết phục, thì chúng tôi sẽ ủng hộ hết mình. Đừng gieo trong lòng người dân điều hi vọng viển vông sẽ làm phân tán sức mạnh chống CSVN, thay vì tập trung tinh thần để cùng nhân dân cả nước đấu tranh cho dân chủ Việt Nam!
    • Tuần Triệt says:
      Theo tôi: Có khả thi người ta mới vận động….Con đường phuc hồi Hiệp Định Paris phải được giữ kín. Khi nào cần sẽ công bố….bằng không sẽ bị csVN phá hoại. ( Chưa chi, có người cho là hoang tưởng ).
    • Lâm Vũ says:
      Tôi xin được đồng ý với ý kiến của độc giả Trần Bảo Thịnh.
      Trong bài phản biện này, ông Bích đã không đi vào những câu hỏi chính, mà nói khá nhiều đến những chuyện quá phụ thuộc, như lỗi chính tả, lỗi typo v.v. Cách tranh luận này không hoàn toàn xứng đáng với tư cách của một chính khách tầm vóc chính phủ quốc gia, dù chỉ là một chính phủ “lâm thời lưu vong”.
      Thật ra, một “chính phủ lưu vong” cũng có thể làm được nhiều chuyện có lợi cho công cuộc “phục quốc”. “Quốc” đây phải là cả đất nước và dân tộc Việt Nam, hơn là chỉ VNCH cũ. Chính Hiệp định hòa bình Paris cũng còn cần nhiều phân tích mổ xẻ, để đưa ra những phần trách nhiệm của những phe đã ký kết, chủ yếu là Hoa Kỳ và chính quyền CSVN.
      Dĩ nhiên, không ai trong chúng ta “hoang tưởng” rằng, bằng cách đó người Việt có thể đòi hỏi Hoa Kỳ ép buộc CSVN trả lại đất nước VN cho dân, bằng một cuộc tồng tuyển cử với sự kiểm xoát trực tiếp của LHQ chẳng hạn. Thế nhưng, “chính phủ lưu vong” có thể làm cho và thế giới và người Việt hiểu rõ bản chất của “phe chiến thắng” chỉ là một cuộc xâm lược quân sự hơn là ý muốn của toàn dân. Làm được phần sự này, một “chính phủ lưu vong” đã làm được nhiều lắm rồi.
      Tóm lại, tôi nghĩ, nếu mỗi người chúng ta chỉ cần làm được một việc nhỏ, nhưng cộng lại sẽ thành một bước tiến lớn trong công cuộc phục quốc vậy.
      LV
  2. noileo says:
    KQN:
    “Hiệp Định Geneva 1954 là một hiệp định đình chiến quân sự. Do đó chỉ có hai phe quân sự ký (Thiếu Tướng Henri Delteil của Pháp và Thiếu Tướng Tạ Quang Bửu của Bắc Việt). QGVN không ký và cũng không được phép ký dù muốn trong thời điểm đó, vào Hiệp Định Geneva 1954. Nhưng QGVN vẫn bị buộc phải tuân theo hiệp định này, kể cả việc rút quân và tổ chức cho dân di cư vào nam vĩ tuyến 17, ngoại trừ sau này từ chối cuộc tổng tuyển cử 1956. Sự thật là sợ thua nên Ông Ngô Đình Diệm đã không bằng lòng cuộc tổng tuyển cử. Miền Nam không ký nhưng tuân theo điều kiện của Hiệp Định Geneva 1954 trong 2 năm đầu. Nghĩa là trong giai đoạn này miền Nam chưa xé Hiệp Định Geneva. Đến năm thứ ba không đồng ý tổng tuyển cử, lúc đó miền Nam mới xé rào. Xé hiệp định hay xé rào hậu quả chỉ là một. Vấn đề đặt ra là tại sao không trở lại những hiệp định trước đó mà chỉ muốn phục hồi Hiệp Định Paris 1973. ”
    1
    Không những QGVN & VNCH không ký vào hiệp định Giơ ne vơ 1954, mà bản thân Hiệp dịnh Giơ ne vơ 1954 cũng không có diều khoản nào buộc QGVN & VNCH phải tiến hành tổng tuyển cử.
    Dù với bất cứ lý do nào mà VNCH không tiến hành ttc, thì điều ấy, sụ khước từ đề nghi tổng tuyển cử, cũng không hề có nghĩa là “xé bỏ & xé rào & vi phạm hiệp định”.
    2
    “xé bỏ & xé rào & vi phạm hiệp định” chính là nhà cầm quyền cộng sản VNDCCH & Hồ chí Minh của ông Nguyễn Quốc khải.
    Ngay khi hiệp định chưa ráo mực thì bọn cộng sản VNDCCH và Hồ chí Minh cùng bọn trí thức cộng sản chân chính tin=m đỏ thẻ đỏ & bọn “lão thành cách mạng”, thủ phạm của hành động phản quốc, tuâ lệnh tàu cộng chia cắt VN tại vĩ tuyến 17, trong toan tính phá hoại & xâm chiếm VNCH, đã cho bộ đội cộng sản, đảng viên cộng sản vượt vĩ tuyến 17 xâm nhập VNCH, những điềunnafy vẫn thường đuọc bọn trí thức cộng sản khoe khoang nhặng sị trên những tờ báo ề đảng,
    cũng là vi phạm hiệp định khi bọn cộng sản đã chôn dấu vũ khí tại phía nam vĩ tuyến 17, để lại tại phía nam vĩ tuyến 17 cán bộ cộng sản hòng phá hoại VNCH, đó là hành động vi phạm hiệp định,
    vì theo quy định của hiệp định, mỗi bên phải rút hết vũ khí lực lượng của mình về phía bên của mình ở một bên của vĩ tuyến 17 , và như ông đã nói ở trên, phía VNCH đã rút hết mọi lựuc lượng của mình về phía nam vĩ tuyến 17, riêng bọn cộng sản VNDCCH & Hồ chí Minh thì không tôn trọng hiệp định.
    3
    Với một hợp đồng, dù là hợp đồng gì chăng nữa, mà một bên vi phạm, thì bên còn lại có toàn quyền bất tuân hợp đồng & có toàn quyền xé bỏ hợp đồng mà không bị một chê trách nào.
    4
    Như ông KQN đã nói ở trên, mãi 2 năm sau, sau biết bao hành động của bọn cộng sản VNDCCH & Hồ chí Minh & nhà cầm quyền cộng sản VDCCH ở miền bắc, ngay từ 1954, vi pham hiệp định, xé bỏ hiẹp định, lúc ấy, 1956, VNCH mới không khe đến bản hiệp định đã bị cộng sản xé bỏ”, mà ông vẫn còn kết án VNCH & ổng thống Ngô Đình Diệm là “xé bỏ” hệp định đụơc sao?
    Cái đầu, cái óc, sự phán đoán khách quan công bằng kiểu gì vẩy
    (mà thực ra hành động của VNCH, khước từ “TTC’ cũng vẫn không phải là “xé bỏ”, vì “tổng tuyển cử” không phải là một điều khoản & quy định của hiệp định,
    chưa kể rằng hành động khước từ bầu cử với cộng sản là một hành động hoàn toàn hợp với lý trí bình thường, vì không có ai lại chơi trò bầu cử ngayb thẳng với bọn cộng sản chuyên nghề bầu cử gian lận, chuyên nghề dùng công an & súng đạn & còng số 8 cưỡng bức người dân dưới ách cai trị cộng sản phải bầu theo ý bọn công an & đảng viên cộng sản.
    Nếu có “sợ thua” trong một cuộc bầu cử gian lận của cộng sản, thì cái “sợ thua ” ấy hoàn toàn bình thường, hoàn toàn là khôn ngoan !)
    5
    Nhưng vì đâu mà có cái “hiệp định giơ ne vơ 1954″ để mà ông NGuyễn Quốc khải lên tiếng vu cáo VNCH “vi phạm hiệp định”?
    Chính là cụ Hồ chí Minh gian ác và bọn cộng sản VNDCCH & nhà cầm quyền cộng sản VNDCCH vong bản ngoại lai tay sai tàu cộng, của ông Nguyễn Quốc Khải đã tuân lệnh Tàu cộng Mao trạch Đông, toa rập với thực dân Pháp, chia cắt VN tại vĩ tuyến 17.
    6
    Trước khi mở mồm vu cáo kết án VNCH năm 1956 “vi phạm hiệp định & chia cắt VN” hãy két án bọn cộng sản VNDCCH & Hồ chí Minh đã đang tay chia cắt VN ngay từ 1954
    7
    Ông NQK nói ông không viết sử, “Tôi không phải là một sử gia mà chỉ muốn bình luận về một biến cố lịch sử”
    Thiết tưởng, dù là “viết” hay “bình luận” & “phê phán” thì cũng phải dựa trên những sự thật, những bằng chứng có thật, những văn bản pháp lý có thật, và không phải ai, không một ai có thể tự thị rằng mình mới là kẻ biết sự thật, rằng chỉ một mình mình có sự thật, nên “viết sử” hay “bình luận” gì gì thì cũng phải phải viện dẫn mọi nguồn ý kiến & mọi lập trường đối nghịch, chứ đâu có mà cứ ăn ốc nói mò, tự biên tự diễn như vậy, mà gọi là “bình luận về một biến cố lịch sử” được!
    “QGVN không ký và cũng không được phép ký dù muốn trong thời điểm đó, vào Hiệp Định Geneva 1954.”(KQN)
    Tôi vừa đọc lại cái trích dẫn ở đầu cái còm này, và thấy rõ hơn về mệnh đề trên của KQN, một luận điẹu sặc mùi trí thức cộng sản chân chính tim đỏ thẻ đỏ chuyên nghề làm chứng gian & nói lấy đuọc, vu cáo & bôi nhọ VNCH!
    Tự nhiên thấy tiếc cái công hồi nãy trong khi gõ gõ bàn phím trả lời NGuyễn Quốc Khải, lòng cứ nghĩ rằng ông ta cũng là một người tử tế đáng để trả lời lịch sự!
    Nhưng thôi lỡ rồi, xin phép cứ cho pót vậy!
    À mà này, ông KQN có quen biết gì với cái nick “kami” không?
    • doctin says:
      “Tôi vừa đọc lại cái trích dẫn ở đầu cái còm này, và thấy rõ hơn về mệnh đề trên của KQN, một luận điẹu sặc mùi trí thức cộng sản chân chính tim đỏ thẻ đỏ chuyên nghề làm chứng gian & nói lấy đuọc, vu cáo & bôi nhọ VNCH!” – Noileo says.
      *** Sử gia Trần Gia Phụng- Hồ Chí Minh & đảng Lao Động (LD)( tức đảng Cộng sản Việt Nam) muốn đánh chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, mà kế hoạch đã được đảng LĐ chuẩn bị từ trước khi ký hiệp định Genève ngày 20-7-1954.
      KẾ HOẠCH LIỄU CHÂU: THAM VỌNG CỦA ĐẢNG LĐ
      Hội nghị Genève về Đông Dương với 9 phái đoàn là Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, CHNDTH, và bốn chính phủ liên hệ ở Đông Dương là QGVN, VNDCCH (phe Hồ chí Minh), Lào, Cambodge (Cambodia), bắt đầu ngày 8-5-1954, một ngày sau khi kết thúc trận Điện Biên Phủ.
      Hội nghị Genève kéo dài cho đến ngày 21-7-1954, có thể chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhứt từ ngày khai mạc đến 20-6-1954. Giai đoạn thứ hai từ ngày 10-7-1954 đến 21-7-1954. Giữa hai giai đoạn nầy, trong khoảng thời gian 20 ngày tạm nghỉ để các phái đoàn về nước tham khảo và nghỉ ngơi, xảy ra ba sự kiện quan trọng:
      1) Tại Pháp, Mendès France chính thức nhận chức thủ tướng ngày 21-6-1954. Ông hứa hẹn với dân chúng Pháp sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong vòng bốn tuần lễ và sẽ ký kết hiệp ước chậm nhất vào ngày 20-7-1954, nghĩa là Pháp dứt khoát rời bỏ Việt Nam.
      2) Tại Việt Nam, ông Ngô Đình Diệm chính thức cầm đầu chính phủ QGVN ngày 7-7-1954.
      3) Trong thời gian nghỉ họp, Chu Ân Lai- thủ tướng Trung Quốc và là trưởng phái đoàn Trung Cộng tại Genève- về nước và mời Hồ Chí Minh bí mật hội họp tại thị trấn Liễu Châu (Liuzhou), thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi hay Guangxi), từ 3 đến 5-7-1954. Lúc đó, dư luận thế giới hoàn toàn không biết đến hội nghị nầy. Nội dung hội nghị nầy không được VNDCCH tiết lộ, mà chỉ được phía Trung Quốc tiết lộ sau năm 1975.
      Trong cuộc họp Liễu Châu, Chu Ân Lai ép Hồ Chí Minh phải chấp nhận giải pháp chia hai Việt Nam, đồng thời Châu Ân Lai còn đưa ra kế hoạch cho Việt Minh (VM) ( tức phe Hồ chí Minh) rằng trước khi rút ra Bắc, VM nên kiếm cách phân tán và chôn giấu võ khí ở lại miền Nam, để hữu dụng về sau.
      Về phía phái đoàn VM, Võ Nguyên Giáp, tháp tùng theo Hồ Chí Minh, đã trình bày trong cuộc họp rằng nếu phải rút ra Bắc, thì VM chỉ rút những người làm công tác chính trị đã bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy, có thể từ 5,000 đến 10,000 người. Trong số những người VM gài lại ở miền Nam Việt Nam, có cả Lê Duẫn, bí thư Trung ương cục miền Nam của đảng LĐVN.
      Như thế, rõ ràng đảng LĐ của Hồ chí Minh đã sắp đặt kế hoạch trường kỳ mai phục, chuẩn bị lực lượng tấn công miền Nam Việt Nam từ trước khi ký kết hiệp định Genève vào ngày 20-7-1954. Vì vậy, đảng LĐ sẵn sàng chà đạp hiệp định Genève để thực hiện chủ trưong của đảng LĐ, xâm chiếm miền Nam Việt Nam.
      QUYẾT ĐỊNH TẤN CÔNG MIỀN NAM VIỆT NAM
      Sau cuộc Cải Cách Ruộng Đất, Trường Chinh phải rời chức tổng bí thư đảng LĐ, và Hồ Chí Minh kiêm nhiệm chức nầy kể từ 30-10-1956. Đảng LĐ chuyển công tác của Lê Duẫn từ bí thư Xứ uỷ Nam Bộ ra Bắc giữ chức Uỷ viên thường vụ Bộ chính trị để phụ tá cho Hồ Chí Minh khoảng đầu năm 1957.
      Vào năm 1958, Lê Duẫn được bí mật gởi vào miền Nam nhằm nghiên cứu tình hình. Khi trở ra Bắc vào cuối năm nầy, Lê Duẩn viết bản báo cáo đề nghị đánh chiếm miền Nam bằng võ lực. Bản báo cáo của Lê Duẫn là nền tảng của quyết định quan trọng của hội nghị Trung ương đảng (TƯĐ) LĐ lần thứ 15 ở Hà Nội.
      Tại hội nghị nầy, ngày 13-5-1959, ban chấp hành TƯĐLĐ đưa ra nghị quyết thống nhất đất nước (tức đánh chiếm miền Nam bằng võ lực) và đưa miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa. (Nghị quyết này đăng trên Nhân Dân ngày 14-5-1959).
      Cùng ngày 13-5-1959 đưa ra nghị quyết thống nhất đất nước, chiếm miền Nam bằng võ lực, Hà Nội cử thượng tá Võ Bẩm lên đường vào Nam lập đường dây liên lạc với các lực lượng gài lại trong Nam. Sau đó, ngày 1-6-1959, một toán gồm 32 cán bộ miền Nam tập kết, bắt đầu ra đi mở đường vào Nam. Đó là con đường Trường Sơn- là dãy núi được xem là sống lưng của toàn cõi Đông Dương- để đưa quân xâm nhập Nam Việt Nam.
      Vào năm sau, tại Hà Nội, từ ngày 5-9 đến ngày 10-9-1960, diễn ra Đại hội đảng LĐ lần thứ III, được mệnh danh là “Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”. Đại hội đưa ra hai mục tiêu lớn của đảng LĐ là xây dựng miền Bắc tiến lên Xã hội chủ nghĩa và tiến chiếm miền Nam bằng võ lực. Cuối Đại hội nầy, Hồ Chí Minh được bầu làm chủ tịch đảng LĐ, Lê Duẫn làm bí thư thứ nhất thay Trường Chinh. Bộ chính trị gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết.
      Điểm chót của việc chuẩn bị trong cuộc tấn công miền Nam là việc Hà Nội công bố thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam ngày 12-12-1960 tại Hà Nội. Mặt trận nầy chính thức ra mắt vào ngày 20-12-1960 tại chiến khu Dương Minh Châu ở Tây Ninh, Nam Việt Nam.
      ***Sử gia Hoàng Ngọc Thành- Ngay sau khi Hiệp Định Đình Chiến Geneve 1954 vừa ký kết, HCM và đồng đảng đã xếp đặt quỷ kế xâm lược miền Nam – dưới chiêu bài “Chống Mỹ Cứu Nước”. Quỷ kế này gây nên thảm cảnh chiến tranh máu lửa, kéo dài ròng rã suốt 18 năm trời. Trên trang 505, Sử gia Hoàng Ngọc Thành viết:
      ‘Tại liên khu V (đèo Hải Vân đến Bình Thuận) và tại các vùng tự do ở Nam bộ, các nơi tập kết từ 80 đến 300 ngày, Đảng gây ra phong trào dân địa phương gả con gái cho bộ đội càng nhiều cuộc hôn nhân càng tốt, để các gia đình và các cô vợ mới cưới nhớ đến những anh chồng bộ đội và khi cần có thể nhờ các gia đình này tiếp tế hay làm nơi liên lạc. Tại Nam bộ, Đảng sắp xếp và tổ chức được nhiều đám cưới tập thể nữa…..
      ….. Còn cao cấp như Lê Duẩn- bí thư xứ ủy- giả vờ xuống tàu đi tập kết, nhưng ban đêm xuống xuồng đi vào bờ trở lại. Đảng mai phục và chuẩn bị cho trận chiến sắp đến’.
    • doctin says:
      …Hiệp Định Geneva 1954 mà chính VNCH đã xé bỏ” ???
      Sự thật về vấn đề này ra sao ?
      Sử gia Trần Gia Phụng -: Danh xưng chính thức của Hiệp Định Genève là Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự :
      - Việt Nam chia làm hai vùng tập trung, ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải (Tỉnh Quảng Trị). Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía Bắc và Quốc Gia Việt Nam ở phía Nam.
      - Dọc hai bên bờ sông, thành lập một khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên,
      để làm ‘’khu đệm’’, có hiệu lực từ ngày 14.8.1954.
      - Thời hạn tối đa để hai bên rút quân là 300 ngày kể từ ngày Hiệp Định có
      hiệu lực.
      - Cuộc ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 27.7 ở Bắc Việt, 1.8 ở Trung
      Việt và 11.8 ở Nam Việt.
      - Mỗi bên sẽ phụ trách tập họp quân đội của mình và tự tổ chức nền hành
      chánh riêng.
      - Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu nầy sang khu
      thuộc phía bên kia.
      Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam chỉ là một Hiệp Định có tính cách
      thuần túy quân sự. Cũng giống như hiệp ước đình chiến Panmunjon (Bàn Môn
      Điếm) ngày 27.7.1953, Hiệp Định đình chiến Genève không phải là một hòa ước, và
      không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.
      “BẢNTUYÊN BỐ CUỐI CÙNG KHÔNG CHỮ KÝ”:
      Sau khi Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam được ký kết, các phái đoàn
      họp tiếp ngày 21.7.1954 và ‘’thông qua’’ bản ‘’Tuyên Bố Cuối Cùng Của Hội Nghị
      Genève 1954 Về Vấn Đề Lập Lại Hòa Bình Ở Đông Dương’’. Đây chỉ là lời tuyên bố
      (Déclaration) của bảy phái đoàn, có tính cách dự kiến tương lai Việt Nam, và đặc
      biệt không có phái đoàn nào ký tên vào Bản Tuyên Bố nầy, nghĩa là Bản Tuyên Bố
      không có chữ ký.
      Khi chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (Ngoại Trưởng Anh) hỏi từng phái
      đoàn, thì 7 phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Việt
      Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Lào và Cambodge (Cambodia) trả lời miệng rằng ‘’đồng
      ý’’. Phái đoàn Hoa Kỳ và phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không đồng ý, và tự đưa
      ra tuyên bố riêng của mình.
      Bản ‘’Tuyên Bố Cuối Cùng Của Hội Nghị Genève 1954 Về Vấn Đề Lập Lại Hòa Bình Ở Đông Dương’’
      gồm 13 điều, trong đó quan trọng nhất là điều 7. Điều nầy ghi rằng:
      ‘’Hội Nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị
      thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ,
      sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm
      bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau Tổng Tuyển Cử tự do và bỏ phiếu kín. Để
      cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể
      tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ tổ chức vào tháng 7.1956 dưới sự
      kiểm soát của một Ban Quốc Tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám
      Sát và Kiểm Soát Quốc Tế đã nói trong Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự. Kể từ ngày
      20.7.1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc
      6 gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó’’. (Bản dịch của Thế Nguyên, Diễm Châu,
      Đoàn Tường)
      Điều 7 của Bản Tuyên Bố được xem là dự kiến về một giải pháp chính trị
      trong tương lai, theo đó một cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ có thể được tổ chức để thống
      nhất đất nước, mà sau nầy Bắc Việt dựa vào điều nầy để đòi hỏi Nam Việt tổ chức
      Tổng Tuyển Cử trên toàn quốc.
      Bắc Việt thường nói và viết rằng việc tổ chức Tổng Tuyển Cử giữa hai miền
      Bắc và Nam Việt Nam là theo quyết định của Hiệp Định Genève. Thật ra Hiệp Định
      Genève chỉ là một Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự (đình chiến) mà không đưa ra một
      giải pháp chính trị nào. Giải pháp chính trị về một cuộc Tổng Tuyển Cử giữa hai
      miền Bắc và Nam Việt Nam dự tính tổ chức vào năm 1956 nằm trong điều 7 của bàn
      ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông
      Dương’’.
      Trong Bản Tuyên Bố riêng của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam, Bác Sĩ Trần
      Văn Đỗ, Trưởng Phái Đoàn, giải thích vì sao phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không ký
      kết Hiệp Định Genève. Sau khi phản đối việc chia cắt đất nước và việc đại diện quân
      đội Pháp tự ý ký kết Hiệp Định mà không đếm xỉa gì đến quyền lợi của quân đội
      Quốc Gia và nhân dân Việt Nam, Bản Tuyên Bố của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam
      viết:
      ‘’Vì thế cho nên chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận một cách
      chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp Định cùng những
      điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam
      yêu cầu Hội Nghị ghi nhận rằng chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do
      hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực
      hiện Thống Nhất, Độc Lập, và Tự Do cho xứ sở’’.
      Vì phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không ký vào Bản Hiệp Định đình chỉ chiến
      sự ở Việt Nam (Hiệp Định Genève) và nhất là không tham dự vào bản ‘’Tuyên bố
      cuối cùng’’, nên chính phủ Quốc Gia Việt Nam tự cho rằng không bị ràng buộc vào
      điều 7 của Bản Tuyên Bố nầy.
      Hơn nữa, đây là một Bản Tuyên Bố chứ không phải là một bản hiệp ước. Môt
      Bản Tuyên Bố lại không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nước nào, kể các các chính
      phủ liên hệ đến cuộc chiến ở Đông Dương, có được xem là một văn kiện có giá trị
      pháp lý để thi hành hay không ?
      Vì những lý do căn bản nầy, bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève
      1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’, trong đó đặc biệt điều 7 của Bản
      Tuyên Bố nầy về dự kiến một cuộc Tổng Tuyển Cử trong năm 1956, không có tính
      cách pháp lý để bắt buộc bất cứ nước nào thi hành.
      Đúng một năm sau Hiệp Định Genève, để kiếm cớ gây chiến, Phạm văn
      Đồng, Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức Bắc Việt gởi thư ngày
      19.7.1955 cho Thủ Tướng Quốc Gia Việt Nam tức Nam Việt là Ngô Đình Diệm, yêu
      cầu mở Hội Nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20.7.1955, để bàn về việc Tổng
      Tuyển Cử thống nhất đất nước theo quy định của Hiệp Định Genève.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét