Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014

Tàn sát Tết Mậu Thân tại Huế (1968) (tiếp theo)



IV. Tại sao tàn sát?

Cho đến nay, chưa ai trả lời được câu hỏi vì sao xảy ra cảnh tàn sát ở Huế trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân (1968) của quân đội cộng sản? Ngay cả đảng CSVN hiện nay vẫn tránh né vấn đề nầy. Để giải mã câu hỏi trên, có lẽ nên phân tách các loại tàn sát theo từng nguyên nhân khác nhau.


Tàn sát Tết Mậu Thân tại Huế (1968) (pHẦN mỘT)

1. Tàn sát vì tư thù

Trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, ngoài chuyện chết chóc vì súng đạn, luôn luôn có những cuộc trả thù qua lại giữa những cá nhân trong các phe lâm chiến. Chắc chắn vụ Tết Mậu Thân ở Huế cũng không ra ngoài quy luật nầy.

Huế là một nơi trải qua nhiều biến chuyển chính trị, “đổi đời” từ năm 1945 trở đi, đương nhiên có nhiều cọ xát, mâu thuẫn, tranh chấp, thù hận. Sau năm 1954, nhiều gia đình ở Huế có thân nhân tập kết ra Bắc, bị chính quyền miền Nam truy xét, nay những người nầy trở về tìm cách trả thù những kẻ đã đi tố cáo hay truy hỏi trước đây. Cần chú ý Thừa Thiên và Huế là nơi xuất thân của nhiều nhà lãnh đạo Bắc Việt như Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, Trần Hữu Dực, Hoàng Anh…

Ngoài ra còn có nhiều hình thức tư thù nhỏ nhặt khác, như những người giúp việc đi tố cáo chủ nhà; những công nhân chỉ điểm các ông giám đốc; những người trước đây phạm pháp, bị bắt, bị phạt nay nhân cơ hội trả thù những nhân viên hành chánh, cảnh sát...

Đặc biệt nhiều nhất là những sinh viên học sinh tranh đấu, trước đây tham dự những cuộc biểu tình chống chính phủ bị đàn áp, phải thoát ly bỏ lên núi theo cộng sản, nay trở về cầm súng thanh toán lại những người khác lập trường chính trị mà các sinh viên thoát ly gán “tội” cho họ là tay sai “Mỹ, Ngụy”.

2. Tàn sát theo kế hoạch, chính sách

• Phá hủy và làm rối loạn bộ máy chính quyền VNCH: Ngày 26/01/1968, ba ngày trước Tết, đảng uỷ cộng sản Thừa Thiên đưa ra kế hoạch tổng công kích, tổng khởi nghĩa phía hữu ngạn Huế. Trong kế hoặch nầy, cộng sản dự liệu rằng khó có thể giữ Huế lâu ngày, nên đã chỉ đạo các uỷ viên phụ trách phải phá hoại tối đa các cơ chế vừa mới được ổn cố của chính quyền Sài Gòn (DO, sđd.206). Nói cách khác, chỉ thị trên ra lệnh tiêu diệt quân đội và nhân viên VNCH để bộ máy chính quyền VNCH khủng hoảng nhân sự, thiếu người làm việc, mất hiệu năng. Thành phần tử vong trong Tết Mậu Thân tại Huế do ông Nguyễn Trân đưa ra phản ảnh đúng chủ trương nầy, theo đó đã có “790 hội viên các Hội đồng tỉnh, thị xã và xã bị gán cái tội “cường hào ác bá”, 1.892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát” bị giết.

Sau đây là tài liệu do Sư đoàn 1 Không kỵ Hoa Kỳ bắt được ngày 12/06/1968 tại Thừa Thiên của một cán bộ quân sự cộng sản. Viên cán bộ nầy ghi lại trong sổ tay: 


“Toàn bộ hệ thống chính quyền ngụy từ xã tới tỉnh đã bị tiêu diệt hoặc gẫy đổ. Hơn 3.000 tên đã bị giết. Địch sẽ chẳng bao giờ tái lập lại được hệ thống cũ hoặc xoay chuyển được thất bại của chúng. Dù chúng có thể thay thế ngay bằng những nhân sự thiếu kinh nghiệm, bọn nầy cũng sẽ chẳng làm được gì.” (22)


• Tàn sát để khủng bố, cảnh cáo: Cộng sản Giết quân nhân, công chức và thường dân vô tội (mà họ tình nghi tiếp tay, làm tình báo, hay cộng tác với chính quyền VNCH), cộng sản nhắm đe dọa dân chúng để từ đây đừng tòng quân cho quân lực VNCH, hoặc không được tham gia hay cộng tác với chính quyền VNCH, dưới bất cứ hình thức nào.

Trong quá trình chính trị VNCH, Huế là nơi phát khởi nhiều xáo trộn, nhất là từ năm 1963 trở đi. Việc tàn sát của cộng sản còn nhắm cảnh cáo dân chúng cố đô, từ đó cảnh cáo dân chúng toàn quốc, để dân chúng không dám lên tiếng tố cộng, dầu vẫn còn sống dưới chế độ Cộng Hòa; đồng thời cộng sản chuẩn bị áp đặt một chế độ độc tài trong tương lai một khi họ đánh chiếm được toàn miền Nam. Đó là thông điệp đỏ mà cộng sản muốn báo cho dân chúng Huế nói riêng và các thành phố miền Nam nói chung: với cộng sản, biểu tình, chống đối là tử hình, chứ không dễ dãi như dưới chế độ Cộng Hòa.

Thông điệp đỏ nầy quả nhiên có hiệu quả trong việc áp chế dân chúng, vì sau năm 1975, chế độ cộng sản Hà Nội độc tài tàn bạo, mà hầu như rất ít vụ đối kháng xảy ra, và dân chúng hoàn toàn không có biểu tình, tuyệt thực dễ dàng như dưới thời Việt Nam Cộng Hòa.

• Tàn sát tín đồ Thiên Chúa giáo: Cộng sản luôn luôn kiếm cách tiêu diệt có hệ thống và có kế hoạch các tôn giáo, nhất là những tôn giáo có thế lực chính trị mạnh mẽ, có tổ chức quần chúng quy mô và kỷ luật, hoặc thân chính quyền. Tại Huế, từ khi Ngô Đình Diệm, xuất thân từ một gia đình Thiên Chúa giáo gốc Quảng Bình, lớn lên tại làng Phú Cam, cầm quyền năm 1954, tín đồ Thiên Chúa giáo tại đây yểm trợ chính quyền mạnh mẽ. Ngô Đình Cẩn, em ông Diệm, là người có sáng kiến tổ chức đoàn phản gián “Đặc vụ miền Trung” năm 1960 do ông Dương Văn Hiếu cầm đầu, đã gây thiệt hại nặng nề cho tình báo cộng sản từ Bến Hải vào tới trong Nam.

Do đó, trong kế hoạch đưa ra ngày 26/01 kể trên, đảng uỷ cộng sản Thừa Thiên-Huế nhấn mạnh: 

“Bao vây và cô lập những tên phản động lợi dụng tín đồ Thiên Chúa giáo; phải chú ý đến khu vực Phú Cam, các trường Thiên Hựu và Bình Linh...”
(Don Oberdorfer, sđd. 206). Kế hoạch nầy còn được triển khai hết sức mưu mẹo kín đáo:

Khi mới vào Gia Hội, cộng quân ra lệnh mọi nhà phải hạ cờ Quốc gia (đã được các nhà treo trong dịp Tết), treo cờ MTDTGPMNVN. Dân chúng không có cờ MTDTGP, nên cộng quân ra lệnh treo cờ Phật giáo (Don Oberdorfer, sđd.225). Đây là một âm mưu của cộng sản: (1) Cộng quân dư biết dân chúng sống dưới chế độ miền Nam không thể có cờ MTDTGP mà vẫn ra lệnh treo cờ mặt trận nầy, rồi lấy lý do không có cờ MTDTGP mới đổi qua cờ Phật giáo. (2) Treo cờ Phật giáo, cộng quân sẽ biết nhà nào theo Thiên Chúa giáo, vì những gia đình theo đạo Thiên Chúa làm gì có cờ Phật giáo mà treo? (3) Cộng quân muốn tỏ ra thân thiện với Phật giáo, để gieo tiếng oan cho Phật giáo là thân cộng và gây chia rẽ giữa hai tôn giáo lớn trong nước.

Một nhân chứng có mặt tại vùng Phú Cam (Huế) cho biết khoảng mồng 7 hay mồng 8 Tết, cộng quân bắt trên 300 thanh niên ẩn núp trong nhà thờ Phú Cam, đem đi biệt tích.(23) Tại Huế, cộng quân còn giết hai linh mục người Việt là Hoàng Ngọc Bang và Lê Văn Hộ, và hai linh mục người Pháp dòng Benedicto Thiên An là Urbain và Guy, đồng thời đốt luôn nhà thờ Thiên An.(24)

• Tàn sát để gây tiếng vang trên thế giới và tại Hoa Kỳ: Trong cuộc tổng công kích tết Mậu Thân, cộng quân đã thẳng tay tiêu diệt quân đội Đồng minh như Hoa Kỳ, Phi Luật Tân, và giết luôn cả những thành phần dân sự ngoại quốc như các linh mục người Pháp kể trên, nhất là bốn người Đức ở Viện Đại học Huế (bác sĩ và bà Hort Gunther Krainick, bác sĩ Raimund Discher, và bác sĩ Alois Alterkoster). Ba vị bác sĩ Tây Đức đều tình nguyện đến dạy tại Đại học Y khoa Huế. Cả bốn người nầy bị bắt ngày 5-2-1968. Về sau xác họ được tìm thấy ở gần khu vực chùa Tường Vân.

Huế là thành phố mang nhiều đặc tính di sản lịch sử, văn hóa và chính trị Việt Nam, nên rất được quốc tế chú ý. Chiếm đóng và tàn sát ở Huế dễ gây tiếng vang trên thế giới, để giành ưu thế trong hòa đàm, và nhất là để đe dọa dân chúng Hoa Kỳ, làm cho họ lo ngại cho số phận thân nhân họ đang ở Việt Nam. Vì vậy họ sẵn sàng tham gia các phong trào phản chiến, thúc giục chính phủ Hoa Kỳ sớm rút quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, để đưa chống con về nước.

• Tàn sát để nhuộm đỏ tay chân: Sau thời gian tham gia tranh đấu năm 1966, khi bị chính phủ Sài Gòn gởi quân ra dẹp yên, một số lãnh tụ sinh viên và trí thức Huế thoát ly, bỏ chạy lên chiến khu theo cộng sản như Hoàng Phủ Ngọc Tường (giáo sư trường Quốc Học), Hoàng Phủ Ngọc Phan (sinh viên, em của Tường), Nguyễn Đắc Xuân (sinh viên), Lê Văn Hảo (giáo sư Đại học Văn khoa), Nguyễn Đóa (cựu giám thị trường Quốc Học)... Ngoài nhóm thoát ly, còn có những người lừng khừng, gió chiều nào theo chiều đó. Sử dụng những người thoát ly cũng như lừng khừng, nhưng cộng sản không tin cậy họ. Cộng sản dư biết rằng họ thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản thành phố, thích biểu tình tranh đấu theo kiểu dân chủ Tây phương, đã từng sống dưới chế độ Quốc gia, ít nhiều thụ hưởng không khí tự do và ân huệ chính quyền Quốc gia để ăn học thành tài, mà còn phản bội Quốc gia, thì không biết lúc nào họ sẽ phản bội cộng sản, vì cộng sản chẳng có công đào tạo họ, và cộng sản lại độc tài đảng trị tuyệt đối, không thích chuyện biểu tình phản đối.

Dư luận Huế và báo chí sách vở thường kết án Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân là thủ phạm của những cuộc tàn sát. Cho đến nay, vẫn chưa biết thật sự nhóm nầy đóng vai trò gì, đã làm những gì, nhưng giả thiết như họ đã hành động tàn bạo đối với đồng bào, (chỉ giả thiết mà thôi), thì chẳng qua họ cũng chỉ là những con rối phải thi hành mệnh lệnh và kế hoạch của đảng Cộng Sản. Nếu những Tường, Phan, Xuân không thi hành mệnh lệnh của đảng CS, họ sẽ bị cộng quân loại bỏ dễ dàng. Những nguòi nầy chỉ là những con chốt thí trong cuộc cờ của cộng sản.

Ai cũng biết rằng trong tổ chức cộng sản, chỉ có đảng viên và nhất là đảng uỷ mới có quyền quyết định những chuyện hệ trọng. Còn những hạng tân tòng như Tường, Phan, Xuân chẳng có quyền hành gì để quyết định mạng sống của một tập thể quần chúng lớn lao, trừ vài chuyện trả thù cá nhân mà thôi. Bằng chứng cụ thể là sau năm 1975, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân chẳng được trọng dụng nữa.

Cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân là cơ hội để cộng quân nhuộm đỏ những người thoát ly và những người lừng khừng, làm cho họ không còn con đường nào quay về phía VNCH, dù họ có mặt hay không có mặt ở Huế, và dù họ giết người hay không giết người trong thời gian nầy.

3. Tàn sát khi rút quân
Nhìn vào bản đồ vị trí các mồ chôn tập thể, một điểm nổi bật là tại thành phố Huế, khu phố Gia Hội và vùng phụ cận như Bãi Dâu là nơi duy nhất có nhiều mồ chôn tập thể. Điều nầy cho thấy do cộng quân chiếm giữ Gia Hội được lâu, nên có điều kiện bắt giết nhiều người tại chỗ. Ngoài Gia Hội, những nấm mộ tập thể khác nằm ở các vùng phụ cận chung quanh thành phố Huế. Khi rút lui, cộng quân đem theo những người bị bắt giữ, vừa làm phu khuân vác, vừa khỏi bị lộ bí mật, vừa làm con tin và bia đỡ đạn để tránh bị quân đội VNCH và Đồng minh pháo kích hay chận đánh. Số người bị cộng quân đem theo lên đến vài ngàn người. Đến khi cộng quân cần biến vào rừng, cộng quân giết tất cả những người nầy để khỏi lộ tung tích. Cộng sản giải thích rằng như thế là “giết để tự vệ”(?). Họ không cần phân loại, vì làm như thế sẽ mất nhiều thời giờ, và vì nguyên tắc của cộng sản là “giết lầm hơn bỏ sót”. Ngoài ra, sau một thời gian ngắn cùng sống với nhau, những con tin bị bắt đi theo biết rõ gốc gác, gia đình của các cán binh cộng sản, kể cả cộng sản nằm vùng, và nhất là những tội ác do cộng sản gây ra. Cộng sản sợ rằng nếu để những người nầy sống sót, họ sẽ làm vỡ tất cả những tổ chức bí mật của cộng sản, nhất là tố cáo tội ác của cộng sản trước dư luận trong nước cũng như trên thế giới. Do đó, cộng sản giết những con tin nầy để thủ tiêu nhân chứng, diệt hậu hoạn.

Cách giết người của cộng quân cũng đặc biệt. Cộng quân ra lệnh cho những người bị bắt phải đào hố, nói là để làm hầm trú ẩn tránh bom đạn, hoặc để làm mương dẫn nước cho dân chúng cày cấy. Sau khi đào xong, cộng quân trói thúc ké tay chân những người nầy, quăng xuống hố, rồi lấp đất lại. Cộng quân chôn sống người, chứ không dùng súng bắn vì sợ gây tiếng động và lộ mục tiêu, dễ bị quân đội VNCH và Đồng minh phát hiện.(25
Bản đồ vị trí các mồ chôn tập thể cho thấy cộng quân rút lui theo hai hướng: (1) Hướng nam, qua đường Nam Giao, đến lăng các vua Nguyễn, lên vùng núi. Ngôi mộ tập thể xa nhất về hướng nầy là Khe Đá Mài (428 xác), thuộc quận Nam Hòa, cách thành phố Huế khoảng 40 cây số.(2) Hướng đông, qua ngã Chợ Cống hoặc Dạ Lê. Ngôi mộ tập thể xa nhất về hướng nầy là Vinh Thái (135 xác), thuộc quận Phú Thứ, cách Huế khoảng 40 cây số về phía đông nam. Theo bác sĩ Elje Vannema, người gốc Hòa Lan, quốc tịch Canada, có mặt ở Huế nhân dịp Tết Mậu Thân, Huế có tất cả 19 khu vực chôn người tập thể được tìm thấy, và mỗi khu vực có nhiều nấm mộ tập thể khác nhau.(25) Có thể còn nhiều ngôi mộ tập thể khác vĩnh viễn bị khuất lấp mà không ai tìm ra được.

V. Thử so sánh

Trong lịch sử Việt Nam, cuộc tàn sát tập thể đầu tiên được ghi nhận là vụ Trần Thủ Độ tiêu diệt tông thất nhà Lý năm 1232 (nhâm thìn). Sau khi tổ chức đảo chánh nhà Lý (1010-1225), lập ra nhà Trần (1225-1400), Trần Thủ Độ kiếm cách tiêu diệt con cháu dòng họ nầy. Năm 1232, Trần Thủ Độ tổ chức lễ trai đàn đại tế tổ tiên họ Lý tại Bắc Ninh. Khi con cháu nhà Lý đến dự lễ, theo sử sách ghi lại, Trần Thủ Độ cho giựt sập nhà trai đàn, chôn vùi tất cả con cháu nhà Lý xuống đó. Lúc đó, Trần Thủ Độ giết nhiều lắm là vài chục người hoặc tối đa là khoảng một trăm người. Đã trên 700 năm, thế mà hành vi tàn ác của Trần Thủ Độ vẫn còn là một vết nhơ trên chiếc chiến bào đầy hào quang kháng Nguyên của dòng họ nhà Trần.

Năm 1884, khi người Pháp áp đặt hòa ước Giáp Thâ, đô hộ Việt Nam, vua Hàm Nghi (trị vì 1884-1885) và triều đình do Tôn Thất Thuyết lãnh đạo đã mở cuộc tấn công chống Pháp tại Huế đêm 22 rạng 23 tháng 5 năm ất dậu (đêm mồng 4 rạng mồng 5-7-1885). Thất bại, nhà vua phải bỏ kinh thành chạy ra phía Bắc. Tối hôm đó, quân đội triều đình và dân chúng Huế chết khá nhiều nên sau nầy, hằng năm, tại Huế có tục “cúng cô hồn” vào tối 23-5 âm lịch

Dầu đã xảy ra nhiều trận đánh ác liệt khi quân đội nước ngoài tiến chiếm cựu đô Thăng Long hay Huế, sử sách hầu như không ghi lại dấu vết những hành động độc ác tàn bạo giết hại tập thể tàn ác dã man lộ liễu nào của người nước ngoài đối với thường dân tại các thành phố đang có chiến tranh, kể cả trong ngày 19/12/1946 là ngày mà Hồ Chí Minh ra lệnh bất ngờ tấn công người Pháp tại Hà Nội, người Pháp phản công, nhưng cũng không trả thù thường dân. Việt Minh cộng sản đả kích thậm tệ thực dân Pháp, nhưng trong việc đối xử với thường dân trong chiến tranh, so sánh những biến cố ở Huế năm 1885 và Hà Nội năm 1946 với cuộc tấn công của cộng sản năm Mậu Thân (1968) tại Huế, binh sĩ thực dân Pháp xâm lăng xem ra còn văn minh và nhân đạo hơn người cộng sản Bắc Việt, những kẻ luôn luôn tự hào thuộc “loài người tiến bộ”.
Trong lịch sử thế giới hiện đại, có bốn cuộc tàn sát lớn: Thứ nhất khi chiếm được Nam Kinh (Nanking, Trung Hoa) ngày 13/12/1937, quân đội Nhật Bản đã tàn sát khoảng 300, 000 người Hoa tại thành phố nầy. Cuộc tàn sát diễn ra khủng khiếp, hãm hiếp phụ nữ, bắn giết, dùng kiếm chặt đầu mổ bụng, kể cả trẻ em.(26) Thứ nhì Đức Quốc Xã giết tập thể hàng triệu người Do Thái trong thế chiến thứ nhì (1939-1945). Thứ ba Cộng sản Liên Xô đã giết gần 15.000 tù binh gồm sĩ quan và binh sĩ quốc gia Ba Lan từ 3-4 đến 13/05/1940.(27) Thứ tư Khờ-me Đỏ giết khoảng trên 1 triệu dân Cam Bốt.

Quân phiệt viễn chinh Nhật giết người Hoa vì tức giận dân chúng Nam Kinh, thủ đô của Trung Hoa từ khi Quốc Dân Đảng cầm quyền năm 1927, đã kháng cự mãnh liệt cuộc tiến quân của Nhật Bản. Đức Quốc Xã tàn sát người Do Thái để bảo vệ sự thuần chủng của giống Nhật Nhĩ Man (Aryan) theo chủ thuyết của Hitler. Cộng sản Liên Xô giết sĩ quan và binh sĩ Ba Lan để triệt tiêu quân đội yêu nước của quốc gia nầy, và thành lập quân đội mới dưới quyền chỉ huy của Liên Xô. Tất cả những cuộc tàn sát trên đây đều tàn bạo, vi phạm tội ác nhân loại, giữa người với người. Tuy nhiên, họ là những người khác nước, khác chủng tộc, và hành động vì quyền lợi quốc gia họ.

Chỉ có Khờ-me Đỏ giết đồng bào hay đồng chủng Cam Bốt và Việt Cộng giết đồng bào hay đồng chủngViệt Nam. Ai cũng biết là Khờ-me Đỏ một thời nằm dưới quyền của cộng sản Việt Nam, và Khờ-me Đỏ cũng như cộng sản Việt Nam đều được CHNDTH huấn luyện cũng như viện trợ. Chính Hồ Chí Minh và đảng LĐ đã từng nhận lý thuyết Mác-Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông là kim chỉ nam hành động của cộng sản Việt Nam.(28)

Số lượng người bị Việt Cộng giết tại Huế ít hơn rất nhiều so với những nạn nhân người Trung Hoa, Do Thái, Ba Lan, hay Cam Bốt. Điều nầy dễ hiểu vì khung cảnh không gian xảy ra cuộc tàn sát, tức thành phố Huế, quá nhỏ bé so với các khu vực tàn sát trên thế giới, thời gian Việt cộng chiếm đóng ngắn ngày, và dân số địa phương Huế lúc đó cũng quá ít oi, chỉ có 130, 000 dân (CĐ, MT, sđd.303).

Đặt các cuộc tàn sát trong các điều kiện và hoàn cảnh trong từng vụ cá biệt, mới thấy rõ cuộc tàn sát của Việt cộng năm 1968 ở Huế, một thành phố hiền hòa nhỏ bé với một dân số ít oi, thật dã man không kém gì những cuộc tàn sát khác trên thế giới trong thế chiến thứ nhì. Tính chất độc ác dã man còn biểu lộ trong phương pháp và đối tượng bị giết: giết cả trẻ em và phụ nữ,(29) tùng xẻo người,(30) chôn sống người.(31)

Việc giết hại phụ nữ và trẻ em, cũng như việc tùng xẻo người như thời Trung cổ, do thân nhân các nạn nhân hoặc những người chứng kiến kể lại. Người ta biết được việc cộng sản chôn sống các nạn nhân nhờ hai nguồn tin: Thứ nhất là lời kể cuả những nạn nhân trốn thoát bàn tay cộng quân đã chứng kiến việc chôn sống. Thứ hai là trong các nấm mồ tập thể, lẫn lộn với xác chết những người bị đánh đập, trên thân thể có vết thương và vết máu, người ta tìm được những tử thi chỉ bị trói ké tay chân, thân thể toàn vẹn, không có vết trầy truộc gì cả. Điều nầy có nghĩa là những người đó đã bị quăng xuống hố sau khi bị trói tay để không có cách gì moi đất mà lên được.

Nên lưu ý, đất thịt không phải là nước hay cát. Nước và cát có thể bít kín ngay các khoảng trống, không có không khí, nên người bị trấn nước hoặc bị vùi trong cát, sau vài chục giây, nếu ai mạnh khỏe thì sau một vài phút rồi chết vì ngạt thở. Ngược lại, đất thịt với sạn đá còn nhiều lỗ rỗng, và đất thịt không thể bít hết lên thân thể của nạn nhân, nên dưới những mồ chôn tập thể đó, lúc đầu vẫn còn không khí, và nạn nhân vẫn còn thoi thóp sống, có thể cả vài ngày, sau đó mới kiệt sức mà chết.

Ngày nay, khi đưa một con vật vào lò sát sinh, người ta cố gắng làm sao cho con vật chết liền tức khắc, để tránh việc hành hạ thân xác làm kéo dài sự đau đớn của con vật. Trong khi đó, những nạn nhân bị cộng sản chôn sống nằm bất động, vẫn còn sống, ý thức vẫn làm việc. Thật không thể biết nạn nhân kéo dài sự đau đớn đến độ nào trong cảnh tối mù của địa ngục sống trong nhiều ngày? Không ai biết được vì không ai còn sống để kể lại, nhưng chắc chắn khủng khiếp và đau khổ cùng độ. Biết đâu họ chết ngất vì khủng khiếp trước khi chết vì thiếu dưỡng khí?

Vào đầu thế kỷ 20, một vụ án tử hình được sách vở cho là tàn bạo nhất của lịch sử nước ta là việc người Pháp đã xử yêu trảm chí sĩ Trần Quý Cáp tại Khánh Hòa năm 1908. Yêu trảm là chém ngang lưng, nạn nhân còn đau đớn thoi thóp đôi chút trước khi chết, nhưng thời gian kéo dài không lâu bằng người bị chôn sống dưới đất thịt. Việc chôn sống kéo dài sự đau đớn của nạn nhân, nhất là đau đớn về tinh thần. Chính đó là sự tàn nhẫn của việc chôn sống, và chỉ có người cộng sản mới đủ nhẫ n tâm làm điều đó với đồng bào của mình.

Sau những cuộc tấn công bất ngờ vào đầu năm 1968, du kích cộng sản tiếp tục tấn công nhiều đợt khác nữa ở khắp nơi trên toàn cõi miền Nam. Trong khi đó, một cuộc tàn sát xảy ra ngay sau vụ Mậu Thân, nhưng mãi đến một năm sau mới bị phát hiện, cũng làm cho dư luận rất chú ý. Đó là cuộc thảm sát Mỹ Lai (Quảng Ngãi) ngày 16-3-1968. Vào ngày nầy, trung đội Charlie, thuộc tiểu đoàn 1, sư đoàn 20 Bộ binh Hoa Kỳ do trung úy William Calley chỉ huy, đã thảm sát từ 200 đến 500 dân làng trong ấp Mỹ Lai 4, làng Sơn Mỹ, quận Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Đây là một vết đen trong lịch sử chiến tranh của quân đội Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, giữa vụ Mậu Thân và vụ Mỹ Lai, có những điểm khác nhau căn bản:

• Vụ Mậu Thân là một chủ trương có kế hoạch, có hệ thống, do cấp lãnh đạo của đảng Lao Đông và nhà cầm quyền Hà Nội cân nhắc, soạn thảo trong một thời gian dài. Nhà cầm quyền Hà Nội và đảng Lao Động đã vận động cả một bộ máy quân sự lớn mạnh để thi hành vụ Mậu Thân trên toàn cõi miền Nam Việt Nam, lúc dân chúng miền Nam đang sửa soạn đón mừng năm mới theo truyền thống dân tộc. Trong khi đó, vụ Mỹ Lai bắt nguồn từ sự nóng giận nhất thời của một sĩ quan và một nhóm binh sĩ đang hành quân ngoài mặt trận, tại một quận hẻo lánh ở miền nông thôn Quảng Ngãi. Đó là chưa kể các sĩ quan và binh sĩ Hoa Kỳ nghi ngờ chính dân chúng Mỹ Lai đã tiếp tay cho quân du kích tấn công quân đội Hoa Kỳ.

• Khi phát hiện vụ Mỹ Lai một năm sau, quân đội Hoa Kỳ nhận trách nhiệm về vụ Mỹ Lai, đã đưa trung úy Calley ra xét xử trước pháp luật. Ngược lại, cho đến nay, bốn mươi năm sau, CSVN chưa hề lên tiếng chịu trách nhiệm và xin lỗi nhân dân Việt Nam về vụ Mậu Thân, hay xét xử các sĩ quan chỉ huy các vụ thảm sát ở Huế.

• Vụ Mỹ Lai được báo chí Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ tự do đưa tin, tường thuật, bình luận, kết án... Trong khi nhà cầm quyền cộng sản hoàn toàn bưng bít tin tức thảm sát Mậu Thân. Các báo chỉ được quyền ca tụng rằng cuộc tổng công kích Mậu Thân là một “chiến thắng” to lớn của quân cách mạng. Không phải riêng vụ Mậu Thân năm 1968, mà cho đến nay, tất cả báo chí trong nước đều do cơ quan nhà nước quản lý, nên tất cả báo chí trong nước đều chỉ là những cái loa truyền thanh phát đi một điệp khúc duy nhất do nhà cầm quyền cộng sản soạn sẵn mà thôi.

Toronto, Canada

(Còn tiếp)

© DCVOnline




(22) Stephen Hosmer, "Tổng tấn công Tết và Huế", đăng trong PTGDVNHN, sđd. tr.217.[Không đề tên người dịch]. Phần nầy trích trong sách của Stephen Hosmer, Vietcong Repression and its Implications for the Future, Massachusetts: Nxb. Heath Lexington Books, 1970.
(23) Nguyễn Thế, "Nhớ về Mậu Thân", đăng trong PTGDVNHN, sđd. tr. 199. Theo Don Orberdorfer, con số nầy lên đến 400 người (DO, sđd.214).
(24) PTGDVNHN, sđd. tt. 135, 143.
(25) Alje Vannema, “Cố đô kinh hoàng”, đăng trong PTGDVNHN, sđd. tt. 124-142. Bài nầy trích dịch từ Alje Vannema, sđd. [Không đề tên người dịch.]
(26) Iris Chang, The rape of Nanking, New York: Nxb. BasicBooks, 1997, tt. 100-103. Tác giả Iris Chang đưa ra nhiều số liệu khác nhau từ nhiều nguồn tài liệu, và cho rằng con số tương đối là 300.000. (Iris Chang là một ký giả Hoa Kỳ gốc Trung Hoa, sinh năm 1967, tốt nghiệp Đại học Illinois ở Urbana.)
(27) Stéphane Courtois và một số tác giả, Le livre noir du communisme: Crimes, terreur, répression, Paris: Nxb. Robert Laffont, 1997, bản dịch Anh ngữ của Jonathan Murphy và Mark Kramer, The Black Book of Communism, Crimes, Terror, Repression, Massachusetts: Nxb. Harvard University Press, in lần thứ nhì, 1999, tt. 368-369. Theo sách nầy: năm 1939, Liên Xô bắt cầm tù khoảng từ 240.000 đến 250.000 tù binh quốc gia Ba Lan, kể cả 10.000 sĩ quan. Liên Xô phân tán lực lượng trên đi làm đường hoặc lao động nặng nhọc ở các công trường và nông trường xa, và giam giữ khoảng gần 15.000 sĩ quan và cảnh sát Ba Lan tại các trại Starobielsk và Kozielsk (giam sĩ quan) và Ostaszkow (giam cảnh sát). Số nầy bị giết như sau: 4.404 tù binh trại giam Kozielsk, đem đến bắn và chôn ở Katyn; 3.896 tù binh trại giam Starobielsk bị giết sở tại chỉ huy mật vụ ở Kharkiv và chôn ở vùng ngoại vi thành phố nầy tại Pyatishatki; 6.287 tù binh trại giam Ostaszkow bị sát hại tại sở chỉ huy mật vụ Kalinin, và chôn ở khu Mednoe của thành phố nầy.
(28) Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ & Quốc hội, California: Nxb. Văn Nghệ, tái bản năm 1996, tr. 150.
(29) PTGDVNHN, sđd. tr. 205 (tin của Washington Post, ngày 9-3-1968), và tt. 250-254 (bài “Crescendo of Terror – Hue” của M. W. J. M. Broekmeijer.)
(30) Sau đây là một cảnh tùng xẻo người của Việt Cộng: "Thiếu tá Từ Tôn Kháng, Tỉnh đoàn trưởng Xây dựng Nông thôn Thừa Thiên, nhà ở 176 Bạch Đằng (gần cầu Đông Ba) Huế, trốn trong nhà đã ba bốn ngày. VC [Việt Cộng] vào nhà bắt vợ con ra đứng giữa sân và tuyên bố nếu ông Kháng không ra trình diện thì sẽ tàn sát cả nhà. Vì thế ông phải ra nộp mạng. VC đã trói tay ông, cột ông vào cọc giữa sân, xẻo tai, cắt mũi, tra tấn cho đến chết, thật là dã man kinh hoàng." (Nguyễn Lý Tưởng, “Mậu Thân ở Huế”, PTGDVNHN, sđd. tr. 89.)
(31) Theo tác giả Nguyễn Lý Tưởng, lúc đó là dân biểu và có mặt ở Huế, thì thượng nghị sĩ Trần Điền, chủ tịch Uỷ ban Canh nông Thượng viện VNCH, một trong những nhà lãnh đạo Hướng đạo Việt Nam, bị bắt và bị chôn sống (bài đã dẫn, sđd., tr. 89). Theo ông Võ Ngọc Tụng, quận trưởng và chi khu trưởng quận Phú Thứ sau năm 1968, người trực tiếp trông coi vụ cải táng tại Phú Thứ, cho biết: khi lo cải táng nạn nhân Mậu Thân, người ta đã tìm thấy một hố 4 xác bị chôn sống của hai linh mục và hai thầy đại chủng viện (Võ Ngọc Tụng, "Cải táng đồng bào bị thảm sát", PTGDHNVM, sđd. tr. 195.) Theo ước tính cuả M. W. J. M. Broekmeijer trong bài “Crescendo of Terror – Hue”, sđd. tr. 252, thì số bị chôn sống lên đến khoảng 600 người.
Tàn sát Tết Mậu Thân tại Huế (1968) (Kết)

Trần Gia Phụng 
Tổng kết

Theo thống kê của Bộ Tổng tham mưu Quân Lực VNCH, cho đến cuối tháng 3, 1968, số tử vong trên toàn lãnh thổ VNCH của các bên trong cuộc tổng công kích tết Mậu thân (1968) là: 4.954 sĩ quan và binh sĩ VNCH; 14, 300 thường dân VNCH; 58.373 sĩ quan và binh sĩ trong lực lượng MTDTGPMNVN và Bắc Việt; 3, 895 sĩ quan và nhân viên Hoa Kỳ (gồm Bộ binh, Không quân, Hải quân, và TQLC), 214 sĩ quan và nhân viên Đại Hàn, Úc, Tân Tây Lan và Thái Lan trong các phái bộ viện trợ quân sự tại VNCH. Trong số 14, 300 thường dân, Huế mất khoảng 2000 người.(32)

Riêng tại Huế, theo thống kê của tác giả Douglas Pike, ước lượng tổng số thiệt hại tại Huế sau biến cố Mậu Thân như sau:

Tổng số thường dân thương vong: 7.500 người.
Số bị thương vì chiến tranh: 1.900 người.
Số thường dân bị tử nạn: 844 người.
Số người mất tích: 1.946.(33)

Theo thống kê của tác giả David T. Zabecki qua một bài viết đăng trong Encyclopedia of the Viet Nam War, tại Huế, số thi hài nạn nhân tìm được trong các mồ chôn tập thể là 2,810 người và hàng ngàn người mất tích. Trong khi đó, Quân đội VNCH có 384 tử trận, 1,830 bị thương; Bộ binh Mỹ 74 tử trận, 507 bị thương; Thủy quân lục chiến Mỹ 142 tử trận, 857 bị thương, Bộ đội Bắc Việt và Việt cộng 5.000 tử trận, số bị thương không tính được.(34)

Các con số nầy chắc chắn chưa đầy đủ, vì còn nhiều người mất tích chưa được kê khai. Riêng tại Huế, nếu số tử thi tìm được trong các mồ chôn tập thể là 2.810 xác, thì số người thật sự chết phải cao hơn rất nhiều, vì chắc chắn còn có những nấm mồ chưa được phát hiện, và có thể không bao giờ được phát hiện, mà vùi dập mãi với thời gian; hoặc những người bị cộng sản đem đi các địa phương khác rồi thủ tiêu. Ngoài ra còn có những người chết được gia đình tự lo liệu việc chôn cất. Dầu có tác giả cho rằng tối thiểu số thường dân bỏ mạng trong dịp Tết tại Huế phải khoảng trên 3.000 người,(35) nhưng thực tế con số nầy phải cao hơn nhiều.

Một điều cần ghi nhận là trong khi giết hại cả hàng chục ngàn thường dân vô tội trên toàn quốc, và nhất là chôn sống đồng bào tại Huế, một tội ác “đất không dung, trời không tha", cộng sản địa phương Huế cũng như tập đoàn lãnh đạo Hà Nội phủi tay trốn trách nhiệm, hoàn toàn không đả động gì đến ai đã chủ mưu và giết chóc như vậy. Đó là lý do chính khiến cộng sản không công bố hồ sơ biến cố Mậu Thân, mặc dầu sự kiện nầy đã xảy ra cách đây bốn mươi năm.

Trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi của một ký giả Tây phương vào năm 1969, ông bộ trưởng Bộ quốc phòng Bắc Việt lúc đó, đại tướng Võ Nguyên Giáp, đã chối rằng Hà Nội không tổ chức tổng công kích Tết Mậu Thân: “Chúng tôi không dính gì tới chuyện đó. Chuyện đó do Mặt trận [Dân tộc Giải phóng] thực hiện.”(36)

Tài liệu hiện nay cho thấy vụ Tết Mậu Thân do chính Nguyễn Chí Thanh soạn thảo kế hoạch, rồi Võ Nguyên Giáp tiếp tục khi Nguyễn Chí Thanh chết bất ngờ, chính Bộ chính trị thông qua kế hoạch nầy, chính Hồ Chí Minh ra lệnh thi hành bằng bài thơ giết người trên đài phát thanh Hà Nội, và chính Trung ương cục miền Nam do Phạm Hùng, uỷ viên Bộ chính trị đảng LĐ đứng đầu, chỉ đạo mọi diễn tiến của tình hình. Ngày nay nhà cầm quyền Hà Nội công khai thừa nhận và ăn mừng “chiến thắng” Mậu Thân, có khi nào Võ Nguyên Giáp nghĩ đến lời nói dối “hào nhoáng” sống sượng của một đại tướng không?

Còn về việc giết người tập thể, ông Bùi Tín, nguyên là đại tá quân đội cộng sản Bắc Việt, nguyên phó tổng biên tập báo Nhân Dân Hà Nội trước năm 1990, đã viết rằng: 

“Cho nên những vụ tàn sát có tính chất tập thể có thể đã xảy ra ở các tiểu đoàn đang hành quân rút lui. Giữa cảnh hỗn loạn khi có lệnh rút lui...Một số đơn vị nảy ra hành động thủ tiêu tù binh để bảo đảm không lộ bí mật, không bị nguy hiểm, “nhẹ gánh", “khỏi vướng chân", “sẽ chết cả nút"... Cuối cùng cũng còn một số ít tù binh giải về căn cứ, được dùng để đào hầm hố, khuân vác... một số về sau được thả về.”(37)


Nếu biện minh như ông Bùi Tín, thì ông giải thích làm sao về việc cộng quân đã tàn sát và chôn hàng ngàn người tại Gia Hội (Huế) trong thời gian họ tạm chiếm vùng nầy?

Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng: 

“Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng. Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế, chứ không phải chính sách toàn cục của cách mạng. Bởi vì tình trạng giết chóc bừa bãi như vậy, đã không xảy ra ở địa phương khác trong Mậu Thân, ngay cả trên một địa bàn rộng lớn với tình trạng xen kẽ giữa những lực lượng đối địch rất phức tạp như ở Sài Gòn thời ấy.”
(Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời phỏng vấn của bà Thụy Khê, bđd.)

Chưa đặt vấn đề lương tâm dân tộc ở đây, nhất là với những người cộng sản và những người chạy theo cộng sản như Hoàng Phủ Ngọc Tường, trước hết, phải xác định rõ ràng cuộc chiến do cộng sản gây ra không phải là “chiến tranh cách mạng”, mà là một cuộc chiến tranh ý thức hệ do tham vọng quyền lực và tham vọng bành trướng của cộng sản Bắc Việt.

Thứ hai, cách thức đổ lỗi “cục bộ", “địa phương” là bài bản sách vở của cộng sản. Trong tất cả các chương trình kế hoạch hành động, cộng sản luôn luôn cho rằng thành công là nhờ đảng lãnh đạo, thất bại là tại địa phương làm sai. Thậm chí nông dân Việt hiện nay có câu ca dao mỉa mai: “Mất mùa là bởi thiên tai, được mùa là bởi thiên tài đảng ta.”

Thứ ba, “tình trạng giết chóc bừa bãi như vậy, đã không xảy ra ở địa phương khác trong Mậu Thân” vì không có nơi nào trên toàn quốc mà cộng sản chiếm được lâu ngày để có thể hoành hành, giết chóc như ở Huế. Trong khi đó, suốt từ 1945 đến 1975, đã nhiều lần cộng sản giết hại tập thể một cách tàn bạo, chôn sống biết bao nhiêu người, như những cuộc thủ tiêu khắp nước những nhà ái quốc không cộng sản,(38) vụ giết hại những tín đồ Cao Đài ở Quảng Ngãi,(39) vụ chôn sống nhóm Đệ tứ Quốc tế ở vùng sông Lòng Sông thuộc tỉnh Bình Thuận,(40) vụ tàn sát các tín đồ Cao Đài và Hòa Hảo ở trong Nam.(41) Có nhiều trường hợp người ta không có tội vẫn giết, vì người đó là một nhân tài, có thể có hại cho cộng sản trong tương lai, nên cần phải giết trước để trừ hậu hoạn. Giết như thế cộng sản gọi là “giết tiềm lực”.

Người trong cuộc là ông Lê Minh, bí thư Thừa Thiên-Huế, phụ trách mặt trận Huế trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, đã thú nhận rằng việc tàn sát tù binh và thường dân ở Huế là có thật. Ông ta tuyên bố chịu trách nhiệm về cuộc tàn sát nầy, nhưng lại chống chế rằng cộng quân “đã ở trong một hoàn cảnh quá khó khăn, đến không thể nào kiểm soát nổi những hành động thô bạo.” (lời của ông Lê Minh, Chính Đạo trích dẫn, Mậu Thân, sđd.137.)

Như đã trình bày ở trên, đây không phải là lần đầu tiên cộng sản “hành động thô bạo". Hơn nữa, từ đâu phát sinh hành động thô bạo? Thông thường, đó là do xuất thân từ một tập thể thô bạo, được giáo dục dưới chủ trương và chính sách thô bạo, và được khuyến khích bằng những hành động thô bạo, không bị pháp luật chế tài. Do đó, chẳng cần phải hoàn cảnh khó khăn thì cộng quân mới “hành động thô bạo”.

Tuy nhiên, ít nhất ông Lê Minh cũng đã can đảm công khai thú nhận quân đội cộng sản đã “hành động thô bạo”, một lời thú nhận hiếm thấy nơi những nhà lãnh đạo cộng sản. Lời thú nhận của ông Lê Minh được đưa ra năm 1988, trong thời gian đảng CSVN bắt đầu cởi mở, đã đuợc đăng trên tạp chí Sông Hương, và được dịch đăng trên báo Newsweek ở Hoa Kỳ (Theo lời Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời bà Thụy Khê).

Sau đó những biến động ở Đông Âu dồn dập xảy ra, và Liên Xô sụp đổ năm 1991, đã làm cho phái bảo thủ trong đảng CSVN cứng rắn trở lại. Hồ sơ Mậu Thân bị khép kín lần nữa. Quyển hồi ký của Lê Minh liền bị thu hồi và bản thân đương sự bị thất sủng, cô lập. Hiện nay, hàng năm vào dịp Tết, CSVN ăn mừng chiến thắng Mậu Thân, trên sự đau khổ của đồng bào cả nước, vì ngày đó cũng chính là ngày kỵ giỗ của khoảng gần 80, 000 người Việt cả Bắc lẫn Nam, cả dân sự lẫn quân sự, đã bỏ mình trong cuộc tổng công kích nầy.
Dầu Võ Nguyên Giáp có chối tội, Bùi Tín, Hoàng Phủ Ngọc Tường hay Lê Minh có biện minh thế nào cho cộng quân, bất cứ ai đã từng sống với cộng sản đều biết rằng:

− Dưới sự lãnh đạo chặt chẽ và sắt máu của cộng sản, không có một người nào dưới quyền đảng Cộng Sản mà không bị kiểm soát, không có một người nào dưới quyền cộng sản mà có thể tự ý làm bất cứ điều gì họ nghĩ. Nhất nhất họ đều phải theo chỉ thị của đảng bộ và của cấp trên. Do đó, việc tàn sát trong cuộc chiến Tết Mậu Thân hoàn toàn là chủ trương chính sách của đảng LĐ tức đảng CSVN.
− Đảng Cộng Sản là một đảng chính trị tổ chức chặt chẽ, rất có kỷ luật. Bất cứ đơn vị quân đội cộng sản nào cũng có một chính uỷ (uỷ viên chính trị) để điều khiển công việc, đứng trên và quyền hành hơn cả đơn vị trưởng. Do đó, không thể đổ lỗi cho các cán binh cộng quân rút lui nên mới tàn sát bừa bãi, và cũng không thể đổ lỗi cho các đơn vị địa phương hay tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế đã phạm sai lầm hoặc giết người để tự vệ.

Chắc chắn phải có kế hoạch chính sách do trung ương hoặc do các đảng uỷ cộng sản quyết định, khi tiến thì làm gì, khi rút lui thì làm gì, các đơn vị thừa hành hoặc các cán binh mới dám tàn sát dân chúng một cách vô nhân đạo, tàn bạo nhất trong lịch sử Việt Nam và cả lịch sử thế giới. Hiếu sát, giết người bừa bãi là một đặc tính căn bản của cán bộ cộng sản học được từ các lãnh tụ Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh. Như thế, đảng LĐ tức đảng CSVN phải chịu trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử về việc tàn sát trong cuộc chiến tết Mậu Thân năm 1968.

Đặc tính khát máu tàn bạo nầy của cộng sản thể hiện xuyên suốt từ những vụ thủ tiêu chính trị năm 1945 (vài trăm ngàn người bị giết), đến cuộc tàn sát trong Cuộc cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc (200,000 nông dân bị tàn sát), rồi Nhân Văn-Giai Phẩm (bắt tất cả trí thức, văn nghệ sĩ phản đối sự chỉ huy văn nghệ cuả cộng sản), vụ án “chống đảng” (bắt giam dài hạn sĩ quan, trí thức không đồng chánh kiến). Cộng sản Việt Nam học theo đúng bài bản Liên Xô trong thế chiến thứ nhì (tiêu diệt tập thể những người yêu nước Ba Lan để thay thế bằng những đảng viện cộng sản Ba Lan), ứng dụng vào hoàn cảnh Việt Nam, tiêu diệt ngay chính đồng bào mình.

Vụ tàn sát Tết Mậu Thân tại Huế là một dấu mốc trong tiến trình xâm lăng VNCH, nhắm đặt toàn thể nước Việt Nam dưới sự cai trị của cộng sản. Sau năm 1954, khi người Pháp rút lui, đất nước bị chia hai. Đáng lẽ cả hai miền Nam và Bắc thi đua phát triển kinh tế, xây dựng đất nước sau cuộc chiến 1946-1954, và chuẩn bị thống nhất đất nước một cách hòa bình trong tình anh em ruột thịt một nhà, các nhà lãnh đạo cộng sản Bắc Việt quyết tâm thôn tính miền Nam bằng võ lực.(42)

Các cấp lãnh đạo cộng sản không thể bằng những phương thức hỏa mù chính trị, đổ tội cho những nhân vật cấp thấp hay rất thấp. Ví dụ ở Huế, cộng sản tuyên truyền đổ tội cho Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, trong khi ai cũng biết những người nầy chỉ là những kẻ ăn theo chạy dọi, những người theo phong trào. Những người nầy, nhất là Hoàng Phủ Ngọc Phan (em của Hoàng Phủ Ngọc Tường), Nguyễn Đắc Xuân đã xuất đầu lộ diện, hăng hái chỉ huy cuộc lùng bắt, tấn công, trước sự chứng kiến của dân chúng Huế, nên đành phải chịu tai tiếng suốt đời. Cộng Sản dùng họ làm những con cờ thí. Các cấp lãnh đạo của cộng sản hy vọng lớp bụi thời gian sẽ lần lần che phủ những dấu vết tội lỗi của cộng sản.

Về các lực lượng trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân:

1) Rõ ràng du kích cộng sản miền Nam đã hoàn toàn thất bại. Đại bộ phận lực lượng MTDTGPMNVN bị tiêu diệt. Nhiều tài liệu của phía CSVN cho thấy MTDTGPMNVN hầu như kiệt quệ sau vụ Mậu Thân. Cuộc tổng công kích không được dân chúng hưởng ứng. Dưới lằn đạn của du kích CS, dân chúng hướng về phía quân đội VNCH hay quân đội Hoa Kỳ để tìm đường sống, chứ không ai chạy theo CS cả.

2) Quân lực VNCH bị tấn công bất ngờ, nhưng đã phản ứng kịp thời, nhanh chóng và mạnh mẽ. Khi bình luận về trận Mậu Thân, ông Yves Gras, một tướng lãnh Pháp, đã viết: “Quân đội Nam Việt giữ vai trò chủ yếu trong các trận đánh bẻ gãy cuộc tấn công của phương Bắc trong Tết Mậu Thân vào tháng 2 năm 1968.”(43) Sau Tết Mậu Thân, khi được tổng thống Hoa Kỳ gởi sang thị sát chiến trường Việt Nam ngày 23-2-1968, tướng Earle G. Wheeler, trong báo cáo gởi về Washington, đã nhấn mạnh: “Các lực lượng vũ trang Việt Nam Cộng Hòa đã kháng cự cuộc tấn công ban đầu với một sức mạnh thần kỳ.”(44)

3) Quân du kích CSVN tấn công Tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn nhắm mục đích gây tiếng vang chính trị, nhưng trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, Việt Cộng tránh đụng độ trực tiếp với lực lượng Hoa Kỳ, mà chỉ nhắm tấn công vào quân lực VNCH. Vì vậy, quân đội Hoa Kỳ và Đồng minh chỉ hoạt động để giúp đỡ quân dội VNCH. Do đó có người cho rằng quân đội Hoa Kỳ phản ứng chậm. Lực lượng Hoa Kỳ và Đồng minh thiệt hại tương đối nhẹ.

Tuy nhiên việc CSVN tấn công vào các thành phố đã làm cho dân chúng Hoa Kỳ hoang mang về tình hình an ninh ở Việt Nam, khiến họ tránh đến Việt Nam đầu tư, làm ăn buôn bán. Quan trọng hơn nữa, dân chúng Hoa Kỳ ở cách Việt Nam nửa vòng trái đất, chỉ theo dõi tình hình qua truyền hình và báo chí. Lúc đó truyền hình và báo chí thiên tả hoạt động mạnh, tô đậm chiến tranh Việt Nam, khiến cho dân chúng Hoa Kỳ lo ngại cho thân nhân của họ đang thi hành quân dịch ở Việt Nam. Việc nầy tạo cơ hội cho các phong trào phản chiến đòi rút quân Hoa Kỳ khỏi Việt Nam hoạt động mạnh hơn nữa. Chỉ khi nào quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam, Bắc Việt cộng sản mới hy vọng chiến thắng ở miền Nam. Dầu thế nào, cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân cũng ảnh hưởng sâu rộng đến chính trường Hoa Kỳ.

Ngày 23/02/1968, tổng thống Lyndon Johnson cử tướng Earle G. Wheeler sang Việt Nam tìm hiểu tình hình tại chỗ. Tướng Wesmoreland, tư lệnh Quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam đề nghị tăng 206,000 quân Hoa Kỳ vào Việt Nam. Ngày 01/03/1968, quyết định cử Clark Clifford giữ chức bộ trưởng Quốc phòng thay Robert Mc Namara. Ngày 22/03/1968, Lyndon Johnson cử tướng Abrams, tư lệnh phó MACV thay tướng Westmoreland. Ngày 30/03/1968, tổng thống tuyên bố không tái ứng cử và xúc tiến việc tìm kiếm một giải pháp chính trị trên bàn hội nghị. Từ năm 1969, Hoa Kỳ bắt đầu kế hoạch “Việt Nam hóa” chiến tranh, mở đầu cho việc rút quân Hoa Kỳ sau nầy...

4) Như đã trình bày ở trên, kẻ hưởng lợi nhiều nhất trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân là cộng sản Bắc Việt. Sau năm 1975, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, một thành viên quan trọng trong MTDTGPMNVN cho rằng “Hà Nội đã có tội khi đưa ra những tính toán sai lầm làm tiêu phí hết sức mạnh của miền Nam.”(45) Thật ra, Hà Nội không sai lầm, mà Hà Nội tính toán trước việc nầy, dầu thắng hay bại, CS Hà Nội đều hưởng lợi (đã trình bày ở trên). Khi quân đội MTDTGPMNVN bị tiêu diệt, cộng sản Hà Nội liền ào ạt gởi quân vào Nam để tăng viện, điền trám chỗ trống, giữ vững quân đội du kích cộng sản khỏi bị suy sụp. Từ đó, CS Bắc Việt hoàn toàn điều khiển MTGPDTMNVN, và loại bỏ những thành phần miền Nam vốn không tuân phục quyền lực Hà Nội trong MTDTGPMNVN. Ngoài ra, Hà Nội khá lợi thế trên chính trường quốc tế trong việc thương lượng để tìm kiếm một giải pháp chính trị cho chiến tranh Việt Nam.

Cuối cùng, dầu bên nào thành công, bên nào thất bại, thiệt thòi nhất vẫn là dân chúng Việt Nam. Người Việt Nam ở cả Bắc lẫn Nam Việt Nam đã mất mát nặng nề trong vụ Mậu Thân. “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” (một vị tướng thành công thì có cả hàng vạn người chết). Xin chú ý thêm rằng Mậu Thân mới chỉ là một trận đánh, trong nhiều trận đánh của cuộc chiến hoàn toàn phi nghĩa kéo dài trong 30 năm trên quê hương Việt Nam, do Hồ Chí Minh và đảng CSVN gây ra, khiến khoảng 3 triệu người đã bỏ mạng.

Theo tin các báo, ngày 22/01/2008, tổng thống Đại Hàn Dân Quốc (Nam Hàn hay Nam Triều Tiên) Roh Moo-hyun đã xin lỗi dân chúng Đại Hàn vì cảnh sát và quân đội đã xử tử không thông qua xét xử 870 người ở thành phố Ulsan trong tháng 7 và tháng 8, 1950 do dính líu đến hoạt động của cộng sản trong thời gian đầu của chiến tranh Triều Tiên 1950-1953.

Trong khi đó, cũng theo tin các báo, từ ngày 18/06/2007 đến ngày 27/06/2007, Viện Nghiên cứu Vùng và Quốc tế của Đại học Princeton đã tổ chức một cuộc hội thảo tại Hà Nội về đề tài “Chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Việt Nam: nguồn gốc, hệ lụy và hậu quả”. Trong khóa hội thảo nầy, giáo sư Nguyễn Đình Lê, tiến sĩ khoa Lịch sử, hiện giảng dạy tại Đai học Quốc gia Hà Nội, đã chối tội cho chế độ Hà Nội bằng cách lập luận rằng vụ thảm sát Tết Mậu Thân là do Mỹ ngụy tạo để đổ lỗi cho CSVN (?)

Cộng Sản Việt Nam đã không nhận lỗi mà còn cho một giáo sư chối tội hết sức ấu trĩ, vì lối bào chữa của ông Nguyễn Đình Lê thật đúng là “Lấy vải thưa che mắt thánh” (tục ngữ). Nếu quả thật quân nhân Mỹ phạm một trọng tội như vậy, chắc chắn CSVN đã la làng từ 40 năm nay, chứ không phải đợi đến bây giờ ông giáo sư đại học Hà Nội mới lên tiếng. Và nếu quả thật quân đội Mỹ phạm trọng tội như vậy thì chẳng những CSVN la làng, mà truyền thông Tây phương (báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, sách vở) cũng đã làm rùm ben, khai thác triệt để, chắc chắn còn hơn cả vụ Mỹ Lai. Ngoài ra, những nhân chứng người Việt hay người ngoại quốc về vụ Mậu Thân hiện nay còn sống ở Huế hay ở khắp nơi trên thế giới. Những hình ảnh rùng rợn về Tết Mậu Thân vẫn còn đó, hàng ngày xuất hiện trên báo chí hay trên các website khắp toàn cầu.

Mới đây, ngày 01/02/2008, CSVN tổ chức các cuộc diễn hành của lực lượng võ trang, kể cả cựu chiến binh tại Sài Gòn để ăn mừng “chiến thắng” Mậu Thân, trong khi hàng vạn gia đình Việt Nam âm thầm tổ chức lễ kỵ giỗ để tưởng nhớ thân nhân của mình đã từ trần trong vụ Mậu Thân..

“Trăm năm bia đá thì mòn,/ Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Vụ án Trần Thủ Độ giết con cháu nhà Lý năm 1232, dù tối đa chỉ vài trăm người, đã trên bảy trăm năm, ngày nay sử sách vẫn còn nhắc nhở, và sẽ mãi mãi nhắc nhở. Sự dã man của tập đoàn lãnh đạo cộng sản Hà Nội qua biến cố Tết Mậu Thân, đậm nét không kém gì những vụ án dã man khác của đảng Cộng Sản, chắc chắn không bao giờ phai mờ trong ký ức của người Việt.

Xin hãy cùng nhau thắp nén hương lòng tưởng nhớ nạn nhân cộng sản trong vụ Mậu Thân nói riêng và trong suốt cuộc chiến vừa qua trên đất nước yêu quý của chúng ta.


Trần Gia Phụng 

Toronto, Canada

© DCVOnline





(32) *Phạm Văn Sơn (chủ biên), sđd. tr. 35.− Don Oberdorfer, sđd. trang đầu sách: “Tặng những người đã hy sinh (từ 29-1 đến 31-3-1968)", không ghi số trang.
(33) Douglas Pike, The Vietcong Strategy of Terror [Chiến lược khủng bố của Việt Cộng], bản trích dịch của điện báo Mặt Trận Quốc Gia, http://www.nufronliv.org/tailieu/tet68/mauthan3.htm
(34) David T. Zabecki, “Huê, Battle of (1968)", bđd., sđd. tr. 304.
(35) Stéphane Courtois và một số tác giả, sđđ. tr. 572.
(36) Don Oberdorfer, sđd. tr. 45. Nguyên văn: “We had nothing to do with it. The [National Liberation] Front put it on.”
(37) Thành Tín [Bùi Tín], sđd. tt. 185-186.
(38) Sau biến cố năm 1945, trên toàn cõi Việt Nam, rất nhiều người bị thủ tiêu. Sau đây là ví dụ vài nhân vật có tiếng: ở Bắc: Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Đào Chu Khải, Trương Tử Anh, Khái Hưng...; ở Trung: Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân, Tạ Thu Thâu...; ở nam: Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Huỳnh Phú Sổ ... Tổng số người bị thủ tiêu trong thời gian nầy trên toàn cõi Việt Nam từ thượng tầng đến hạ tầng ở thôn xã lên đến khoảng vài trăm ngàn người.
(39) Trong “Bạch thư Cao Đài giáo", viết bằng hai thứ tiếng Việt và Anh, do vị đại diện đạo Cao Đài là Ngọc Sách Thanh đưa ra ngày 9-4-1999 tại San Bernardino, California, gởi cho ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc và Uỷ ban Quốc tế Nhân quyền, thì chỉ trong ba tuần lễ kể từ 19-8-1945, tại Quảng Ngãi, VM cộng sản đã giết bằng nhiều cách 2.791 người, vừa chức sắc, chức việc, vừa tín hữu Cao Đài giáo, kể cả phụ nữ và trẻ em,” như chém đầu, chôn sống, thả biển, và cả hình thức “tùng xẻo” thời trung cổ.” [nguyên văn]
(40) Nguyễn Long Thành Nam, Phật giáo Hòa Hảo trong dòng lịch sử dân tộc, California: Nxb. Đuốc Từ Bi, 1991, tr. 359.
(41) Theo tài liệu của Nguyễn Long Thành Nam trong sách đã dẫn và của Huỳnh Tâm, Cao Đài dưới chế độ cộng sản Việt Nam, Paris: Ban Đạo Sử Đạo Cao Đài, 1994.
(42) Ngày nay, ai cũng thấy rõ ràng: Đông Đức và Tây Đức thống nhất không đổ máu; Bắc Hàn và Nam Hàn hiện bắt tay bàn chuyện giúp đỡ và thống nhất; Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và Đài Loan tuy tranh chấp về chính trị và quân sự nhưng vẫn giữ nguyên tình trạng cũ.
(43) Yves Gras [tướng lãnh Pháp], “L'autre armée Vietnamienne, L'engagement des Vietnamiens dans la guerre d'Indochine (1945-1975)", đăng trong sách Indochine: Alerte à l'histoire của một nhóm tác giả, Académie des Sciences d'Outre-Mer [Viện Hàn Lâm Khoa Học Hải Ngoại], Institut de l'Asie du sud-est [Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á] và Association nationale des anciens d'Indochine [Hiệp Hội Quốc Gia Cựu Chiến Binh Đông Dương] đồng xuất bản, Paris, 1985, tr. 279. Nguyên bản Pháp văn câu nầy là: “L'armée sud-vietnamienne joue un rôle capital dans les combats qui brisent l'offensive nordiste du Têt Mau Than en février 1968...”
(44) Tường trình của tướng Earle G. Wheeler (1908-1975) được tướng Yves Gras (người Pháp) trích dẫn trong bài viết của Yves Gras đã trích dẫn ở trên. Nguyên bản Pháp văn Yves Gras dịch của Wheeler: “Les forces armées de la République du Vietnam ont résisté à l'assaut initial avec une force surprenante.”
(45) Peter Macdonald, Giap, the Victor in Vietnam, New York: W.W. Norton & Company, 1993, p. 268. Nguyễn Đức Cung trích dẫn, “Từ ấp chiến lược đến biến cố Tết Mậu Thân”, tập san Định Hướng, Paris: số 51, Mùa Xuân 2008.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét